VẮC-XIN COVID-19 CÓ VẺ HIỆU QUẢ HƠN NẾU ĐƯỢC TIÊM VÀO KHOẢNG GIỮA TRƯA
Cập nhật: 12/4/2023
Nghiên cứu từ Trường Y Đại học Washington ở St. Louis-Hoa Kỳ chỉ ra rằng vắc-xin COVID-19 mRNA có thể hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng nếu các liều được tiêm vào khoảng giữa ngày thay vì vào những thời điểm khác. Các nhà khoa học tin rằng nhịp sinh học; chu kỳ tự nhiên của thể chất và một số thay đổi khác mà cơ thể chúng ta trải qua trong khoảng thời gian 24h; có thể ảnh hưởng đến phản ứng của cơ thể đối với vắc-xin. Hơn nữa, họ phát hiện ra rằng mối tương quan mạnh nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên, cũng như người lớn trên 50 tuổi. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Điều tra Lâm sàng.
Phó giáo sư Jeffrey A. Haspel cho biết: “Thông tin này có thể rất quan trọng trong chiến dịch tiêm chủng hàng loạt, bởi vì nếu có thể nhắm mục tiêu đến các nhóm ưu tiên; chẳng hạn như người trẻ và người già, những người mà dữ liệu của chúng tôi cho thấy sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ vắc-xin COVID-19 vào giữa trưa và tiêm chủng cho họ trong thời gian thời gian tối ưu trong ngày, điều đó sẽ tạo ra lợi ích xã hội đáng kể trong việc giảm các ca nhiễm đột ngột”. Dữ liệu này dành riêng cho việc tiêm vắc-xin COVID-19, nhưng có một số nghiên cứu nhỏ cũng cho thấy việc tiêm vắc-xin cúm có thể hiệu quả hơn sớm hơn trong ngày. Vì những xu hướng này đi theo một hiện tượng sinh học cơ bản, nên có thể mô hình này phản ánh tiêm chủng nói chung. Chúng tôi cần nghiên cứu thêm để xác nhận điều đó.
Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập từ hơn 1,5 triệu người trên 12 tuổi đã đăng ký vào một chương trình bảo hiểm y tế lớn của Israel. Gần như tất cả đã được tiêm vắc-xin Pfizer mRNA. Ở Israel, liều thứ tư (đôi khi được gọi là liều nhắc lại thứ hai) chỉ được tiêm cho bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch và người lớn tuổi, khỏe mạnh. Đối với mục đích phân tích, buổi sáng được coi là 8h sáng đến trưa; buổi chiều là từ trưa đến 4h chiều; và buổi tối là 4 đến 7h tối. Trong số đó người lớn tuổi và những người bị ức chế miễn dịch, mỗi người trong số họ đã tiêm liều vắc-xin thứ tư, số ca nhập viện nhiều hơn ở những người đã tiêm mũi thứ tư sau 4h chiều.
Tùy thuộc vào độ tuổi, hiệu quả của vắc-xin được cải thiện từ 8,6% đến 25% khi được tiêm vào khoảng giữa ngày, so với buổi tối. Để đưa ra ý tưởng về quy mô của hiệu ứng này trên diện rộng dân số, các nhà nghiên cứu ước tính rằng việc di chuyển 18 đến 55 người từ khung thời gian tiêm chủng ít thuận lợi nhất (4 đến 7h chiều) sang khung thời gian thuận lợi nhất (10h sáng đến 2h chiều) sẽ ngăn ngừa bệnh nhiễm trùng sau tiêm chủng.
Phó giáo sư Jeffrey Haspel nói: “Trong đại dịch, việc ngăn ngừa bất kỳ sự lây nhiễm nào là điều nên làm, bởi vì nó làm chậm sự lây lan của vi-rút. Đối với hàng trăm triệu người, lợi ích mà chúng tôi ước tính có thể có tác động rất lớn. Dựa trên bộ dữ liệu lớn của chúng tôi, đặc biệt là đối với trẻ em và người lớn tuổi, sẽ không hại gì nếu cố gắng tiêm vắc-xin cho họ vào cuối buổi sáng và đầu giờ chiều”.
Nghiên cứu cơ bản trên chuột và các sinh vật khác, đã chứng minh rằng đồng hồ sinh học điều chỉnh cách một số gen được biểu hiện, điều chỉnh chúng lên xuống theo dạng sóng tùy thuộc vào thời gian trong ngày. Những thành phần khác nhau của hệ miễn dịch thể hiện các nhịp điệu ngày đêm, bao gồm các phản ứng viêm bẩm sinh, sự di chuyển của tế bào miễn dịch từ tủy xương đến các cơ quan và hạch bạch huyết khác nhau cũng như cách tế bào T phản ứng với những tác nhân bên ngoài.
Jeffrey Haspel giải thích thêm: “Nghiên cứu quan sát này không thể chứng minh liệu có bất kỳ nhịp điệu cụ thể nào của hệ miễn dịch này chịu trách nhiệm cho chu trình mà chúng ta thấy về hiệu quả của vắc xin hay không. Nhưng chúng tôi rất quan tâm đến việc điều tra thêm những câu hỏi này”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2023-04-covid-vaccine-effective-midday.html, 25/4/2023
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-covid-19-co-ve-hieu-qua-hon-neu-duoc-tiem-vao-khoang-giua-trua-6619.html)
BỆNH HEN SUYỄN Ở TRẺ EM GIẢM TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Cập nhật: 12/4/2023
Một nửa số trẻ em ở Hoa Kỳ được chẩn đoán mắc bệnh hen suyễn trong năm đầu tiên xảy ra đại dịch COVID-19 so với những năm trước đó và các nhà nghiên cứu của Đại học Rutgers- Hoa Kỳ cho rằng ít bị cảm lạnh hơn có thể là một phần lý do.
Trong một nghiên cứu mới, được công bố trên Tạp chí y khoa Respiratory Research, bằng cách sử dụng Cơ sở dữ liệu nghiên cứu tích hợp của Health Core, các nhà khoa học đã xác định những cá nhân dưới 18 tuổi không có chẩn đoán hen suyễn trước đó và so sánh tỷ lệ chẩn đoán mới từ năm 2020 với tỷ lệ trong ba năm trước đó. Họ phát hiện ra rằng tỷ lệ chẩn đoán bệnh hen suyễn đã giảm 52% trong năm đầu tiên xảy ra đại dịch so với kết quả của những năm trước.
Tác giả nghiên cứu Daniel Horton cho biết: “Với những phát hiện tương tự từ Nhật Bản và Hoa Kỳ, những kết quả này cho thấy rằng đại dịch đã khiến ít trẻ em mắc bệnh hen suyễn ở nhiều nơi trên thế giới ít hơn, ít nhất là từ rất sớm”.
Theo Tổ chức Hen suyễn và Dị ứng Hoa Kỳ, trích dẫn dữ liệu từ Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia, khoảng 4,8 triệu trẻ em mắc bệnh hen suyễn ở Hoa Kỳ với các triệu chứng bao gồm khó thở, thở khò khè, ho và tức ngực hoặc đau ngực. Trong khi một số nghiên cứu đã chỉ ra sự suy giảm trong tình trạng trầm trọng hơn của bệnh hen suyễn ở trẻ em trong đại dịch, thì tỷ lệ chẩn đoán hen suyễn mới trong đại dịch lại ít được chú trọng hơn nhiều. Dựa trên một nghiên cứu từ Nhật Bản, các nhà nghiên cứu tại Khoa học Y tế và Y sinh Rutgers đã tìm cách nghiên cứu tỷ lệ chẩn đoán ở Hoa Kỳ.
Theo các nhà nghiên cứu, trong khi cần tìm hiểu thêm về lý do tại sao các ca chẩn đoán hen suyễn mới lại giảm đáng kể như vậy, thì việc đeo khẩu trang và cách ly trẻ em trong đại dịch có thể là lý do.
Tác giả nghiên cứu Daniel Horton cho biết: “Chúng tôi nghĩ rằng điều này có thể xảy ra một phần là do trước đó trong đại dịch, trẻ em được tách ra, đeo khẩu trang và ít bị cảm lạnh thông thường hơn có thể gây ra bệnh hen suyễn”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2023-04-childhood-asthma-declines-covid-pandemic.html, 1/4/2023
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/benh-hen-suyen-o-tre-em-giam-trong-dai-dich-covid-19-6456.html)
SỮA MẸ CÓ CHỨA KHÁNG THỂ CHỐNG LẠI SARS-COV-2 CÓ THỂ BẢO VỆ TRẺ SƠ SINH
Cập nhật: 28/2/2023
Một nghiên cứu mới từ Đại học Florida-Hoa Kỳ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy sữa mẹ của những người được tiêm phòng COVID-19 giúp bảo vệ trẻ sơ sinh. Kết quả của nghiên cứu cho thấy sữa mẹ của những bà mẹ tiêm vắc-xin có chứa kháng thể chống lại SARS-CoV-2, vi-rút gây ra COVID-19. Nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Perinatology, đã phân tích phân của trẻ sơ sinh bú sữa mẹ và cũng tìm thấy kháng thể SARS-CoV-2 ở đó.
Tác giả nghiên cứu Joseph Larkin III cho biết: “Nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi cho thấy có kháng thể SARS-CoV-2 trong sữa mẹ, nhưng không thể khẳng định liệu những kháng thể đó có đi qua đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh và có thể bảo vệ ở đó hay không”.
Nhóm tác giả sử dụng kỹ thuật xét nghiệm trung hòa, họ chỉ ra rằng các kháng thể được tìm thấy trong phân của trẻ sơ sinh có tác dụng bảo vệ chống lại vi- rút. Thử nghiệm bắt đầu bằng cách cô lập các kháng thể từ phân và thêm chúng vào một dòng tế bào đặc biệt có loại thụ thể mà vi-rút SARS-CoV-2 sử dụng để xâm nhập vào tế bào. Sau đó, cho pseudovirus SARS-CoV-2, hoạt động giống như vi-rút gây ra COVID-19 nhưng an toàn hơn khi sử dụng trong phòng thí nghiệm. Pseudovirus là huỳnh quang, vì vậy khi nó liên kết với một tế bào, tế bào đó sẽ sáng lên.
Đồng tác giả nghiên cứu Lauren Stafford cho biết:“Chúng tôi thấy rằng khi có kháng thể, sẽ có ít tế bào huỳnh quang hơn so với nhóm kiểm soát khi không có kháng thể”. Joseph Larkin nói thêm: Các kháng thể gây nhiễu và không cho phép vi-rút xâm nhập vào tế bào.
Mặc dù vi-rút gây ra COVID-19 thường được cho là chủ yếu ảnh hưởng đến phổi, nhưng nó cũng có thể xâm nhập vào ruột, đó là lý do tại sao việc tìm thấy các kháng thể ở đó là rất quan trọng. Nghiên cứu cũng đo lường và kiểm tra các kháng thể được tìm thấy trong huyết tương và sữa mẹ của người mẹ ngay sau khi tiêm vắc-xin và khoảng sáu tháng sau đó. Nhóm tác giả phát hiện ra rằng các kháng thể trong huyết tương và sữa của những người được tiêm vắc-xin có khả năng vô hiệu hóa vi-rút tốt hơn, mặc dù họ cũng quan sát thấy rằng mức độ kháng thể giảm sau 6 tháng.
Đồng tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Josef Neu cho biết nghiên cứu thứ nhất và thứ hai cùng nhau đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về cách tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 trong thời kỳ mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ. Trong nghiên cứu, chúng tôi đang theo dõi bước tiến của kháng thể, từ khi chúng được tạo ra trong cơ thể người mẹ sau khi tiêm vắc-xin và giờ là thông qua hệ tiêu hóa của em bé. Câu hỏi tiếp theo là liệu những em bé đó có ít khả năng mắc COVID-19 hơn hay không.
Các nhà khoa học cho biết cần có những nghiên cứu lớn hơn để trả lời câu hỏi đó, vì nghiên cứu mới nhất này bao gồm 37 bà mẹ và 25 trẻ sơ sinh, một số lượng người tham gia tương đối nhỏ. Tuy nhiên, nghiên cứu này bổ sung vào một nhóm nghiên cứu đang phát triển cách tiêm vắc-xin chống lại COVID-19 khi mang thai và cho con bú có thể bảo vệ trẻ sơ sinh. Hiện tại trẻ em dưới sáu tháng tuổi không thể tiêm vắc-xin, vì vậy sữa mẹ có thể là con đường duy nhất để cung cấp khả năng miễn dịch.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyến nghị tiêm vắc-xin COVID-19 cho những người đang mang thai, cho con bú, đang cố gắng mang thai hoặc những người có thể mang thai trong tương lai. Theo CDC, tính đến cuối tháng 11 năm 2022, chỉ hơn 70% phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ đã hoàn thành loạt vắc-xin COVID-19 cơ bản, mặc dù chỉ có 14% được tiêm nhắc lại.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2023-01-scientists-evidence-breast-vaccinated-covid-.html, 13/1/2023
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/sua-me-co-chua-khang-the-chong-lai-sars-cov-2-co-the-bao-ve-tre-so-sinh-6108.html)
SỮA MẸ CÓ CHỨA KHÁNG THỂ CHỐNG LẠI SARS-COV-2 CÓ THỂ BẢO VỆ TRẺ SƠ SINH
Cập nhật: 26/1/2023
Một nghiên cứu mới từ Đại học Florida-Hoa Kỳ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy sữa mẹ của những người được tiêm phòng COVID-19 giúp bảo vệ trẻ sơ sinh. Kết quả của nghiên cứu cho thấy sữa mẹ của những bà mẹ tiêm vắc-xin có chứa kháng thể chống lại SARS-CoV-2, vi-rút gây ra COVID-19. Nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Perinatology, đã phân tích phân của trẻ sơ sinh bú sữa mẹ và cũng tìm thấy kháng thể SARS-CoV-2 ở đó.
Tác giả nghiên cứu Joseph Larkin III cho biết: “Nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi cho thấy có kháng thể SARS-CoV-2 trong sữa mẹ, nhưng không thể khẳng định liệu những kháng thể đó có đi qua đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh và có thể bảo vệ ở đó hay không”.
Nhóm tác giả sử dụng kỹ thuật xét nghiệm trung hòa, họ chỉ ra rằng các kháng thể được tìm thấy trong phân của trẻ sơ sinh có tác dụng bảo vệ chống lại vi- rút. Thử nghiệm bắt đầu bằng cách cô lập các kháng thể từ phân và thêm chúng vào một dòng tế bào đặc biệt có loại thụ thể mà vi-rút SARS-CoV-2 sử dụng để xâm nhập vào tế bào. Sau đó, cho pseudovirus SARS-CoV-2, hoạt động giống như vi-rút gây ra COVID-19 nhưng an toàn hơn khi sử dụng trong phòng thí nghiệm. Pseudovirus là huỳnh quang, vì vậy khi nó liên kết với một tế bào, tế bào đó sẽ sáng lên.
Đồng tác giả nghiên cứu Lauren Stafford cho biết:“Chúng tôi thấy rằng khi có kháng thể, sẽ có ít tế bào huỳnh quang hơn so với nhóm kiểm soát khi không có kháng thể”. Joseph Larkin nói thêm: Các kháng thể gây nhiễu và không cho phép vi-rút xâm nhập vào tế bào.
Mặc dù vi-rút gây ra COVID-19 thường được cho là chủ yếu ảnh hưởng đến phổi, nhưng nó cũng có thể xâm nhập vào ruột, đó là lý do tại sao việc tìm thấy các kháng thể ở đó là rất quan trọng. Nghiên cứu cũng đo lường và kiểm tra các kháng thể được tìm thấy trong huyết tương và sữa mẹ của người mẹ ngay sau khi tiêm vắc-xin và khoảng sáu tháng sau đó. Nhóm tác giả phát hiện ra rằng các kháng thể trong huyết tương và sữa của những người được tiêm vắc-xin có khả năng vô hiệu hóa vi-rút tốt hơn, mặc dù họ cũng quan sát thấy rằng mức độ kháng thể giảm sau 6 tháng.
Đồng tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Josef Neu cho biết nghiên cứu thứ nhất và thứ hai cùng nhau đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh hơn về cách tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 trong thời kỳ mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ. Trong nghiên cứu, chúng tôi đang theo dõi bước tiến của kháng thể, từ khi chúng được tạo ra trong cơ thể người mẹ sau khi tiêm vắc-xin và giờ là thông qua hệ tiêu hóa của em bé. Câu hỏi tiếp theo là liệu những em bé đó có ít khả năng mắc COVID-19 hơn hay không.
Các nhà khoa học cho biết cần có những nghiên cứu lớn hơn để trả lời câu hỏi đó, vì nghiên cứu mới nhất này bao gồm 37 bà mẹ và 25 trẻ sơ sinh, một số lượng người tham gia tương đối nhỏ. Tuy nhiên, nghiên cứu này bổ sung vào một nhóm nghiên cứu đang phát triển cách tiêm vắc-xin chống lại COVID-19 khi mang thai và cho con bú có thể bảo vệ trẻ sơ sinh. Hiện tại trẻ em dưới sáu tháng tuổi không thể tiêm vắc-xin, vì vậy sữa mẹ có thể là con đường duy nhất để cung cấp khả năng miễn dịch.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyến nghị tiêm vắc-xin COVID-19 cho những người đang mang thai, cho con bú, đang cố gắng mang thai hoặc những người có thể mang thai trong tương lai. Theo CDC, tính đến cuối tháng 11 năm 2022, chỉ hơn 70% phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ đã hoàn thành loạt vắc-xin COVID-19 cơ bản, mặc dù chỉ có 14% được tiêm nhắc lại.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2023-01-scientists-evidence-breast-vaccinated-covid-.html, 13/1/2023
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/sua-me-co-chua-khang-the-chong-lai-sars-cov-2-co-the-bao-ve-tre-so-sinh-6108.html)
NGHIÊN CỨU CHỈ RA RẰNG CÁC BIẾN THỂ SARS-COV-2 VẪN CÓ THỂ LÂY TRUYỀN GIỮA CÁC LOÀI
Cập nhật: ngày 26/12/2022
Các nhà khoa học tin rằng loài dơi đã truyền SARS-CoV-2 lần đầu tiên sang người vào tháng 12 năm 2019 và mặc dù vi-rút này đã phát triển thành một số biến thể như delta và omicron, nhưng một nghiên cứu mới chỉ ra rằng vi rút này vẫn có khả năng lây truyền cao giữa các loài động vật có vú. Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Rochester (RIT) đã tạo ra các mô phỏng trên máy tính cho thấy coronavirus sử dụng protein hình gai của chúng để tự gắn vào tế bào chủ ở cả dơi và người theo cách tương tự nhau.
Những phát hiện này đã được công bố trong một nghiên cứu về khoa học mở của Hiệp hội Hoàng gia Luân Đôn của cựu sinh viên RIT Madhusudan Rajendran ’22 MS (tin sinh học) và phó giáo sư Gregory Babbitt, Trường Khoa học Đời sống Thomas H. Gosnell gần đây. Họ đã nghiên cứu cách các protein của vi rút tăng đột biến trong một số biến thể SARS-CoV-2 tương tác với các thụ thể tế bào chủ ACE2 ở cả người và nhiều loài dơi thuộc chi Rhinolophus.
Babbitt cho biết kết quả này thật đáng ngạc nhiên. Ông nói: “Chúng tôi rất hy vọng sẽ nhìn thấy được sự tiến hóa thích nghi thực sự thú vị xảy ra khi vi-rút quen dần với con người hơn sẽ ít quen hơn với loài dơi, nhưng chúng tôi thực sự thấy rằng đã không có nhiều thay đổi lắm”. “Do vị trí liên kết này chưa phát triển mạnh, nên thực sự không có gì ngăn cản nó truyền từ người sang dơi. Khi xem xét mối quan hệ phát sinh loài của loài dơi với con người, chúng cách khá xa nhau trên Sơ đồ hình cây các loài động vật có vú (the mammalian tree). Do đó, điều này gợi ý rằng sẽ có sự lây nhiễm chéo khá phổ biến giữa các loài và tài liệu đã chỉ ra rằng có rất nhiều bằng chứng về điều đó”.
Các nhà khoa học đã sử dụng một phương pháp mô phỏng trên máy tính có tên là động lực học phân tử để đưa các protein vào một mô phỏng solvat hóa và sau đó quan sát chúng di chuyển. Phương pháp này sử dụng tính toán hiệu suất cao trên bộ xử lý đồ họa để hiển thị những gì mà mọi nguyên tử đã thực hiện theo thời gian. Babbitt cho biết, phương pháp này cho phép các nhà khoa học nghiên cứu những câu hỏi không thể trả lời trong phòng thí nghiệm truyền thống.
“Sẽ rất nguy hiểm khi thực hiện các thí nghiệm mà ở trong đó chúng ta tái lây nhiễm cho loài dơi các chủng vi rút của người, vì vậy các mô phỏng dựa trên máy tính của chúng tôi đã đưa ra một giải pháp thay thế an toàn hơn nhiều để thực hiện những nghiên cứu này”, Babbitt nói.
P.T.T (NASATI), theo https://phys.org/news/2022-12-sars-cov-variants-transmissible-species.html, 12/2/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/nghien-cuu-chi-ra-rang-cac-bien-the-sars-cov-2-van-co-the-lay-truyen-giua-cac-loai-5980.html)
BIẾN THỂ PHỤ OMICRON CORONAVIRUS BA.2.75.2 PHẦN LỚN TRÁNH ĐƯỢC CÁC KHÁNG THỂ TRUNG HÒA
Cập nhật: ngày 2/12/2022
Một nghiên cứu tại Học viện Karolinska-Thụy Điển cho thấy rằng biến thể coronavirus BA.2.75.2, một dòng con của omicron, phần lớn né tránh các kháng thể trung hòa trong máu và có khả năng chống lại một số phương pháp điều trị kháng vi-rút bằng kháng thể đơn dòng. Phát hiện được công bố trên tạp chí Các bệnh truyền nhiễm Lancet cho thấy nguy cơ gia tăng nhiễm trùng SARS-CoV-2 trong mùa đông này, trừ khi vắc-xin thể lưỡng trị (bivalent) mới được cập nhật giúp tăng cường khả năng miễn dịch trong dân số.
Tác giả Ben Murrell cho biết: “Trong khi khả năng miễn dịch kháng thể không hoàn toàn biến mất, BA.2.75.2 biểu hiện khả năng kháng mạnh hơn nhiều so với các biến thể mà chúng tôi đã nghiên cứu trước đây, phần lớn là do hai đột biến trong vùng liên kết thụ thể của protein đột biến”.
Nghiên cứu cho thấy kháng thể trong các mẫu huyết thanh ngẫu nhiên từ 75 người hiến máu ở Stockholm chỉ xấp xỉ 1/6 hiệu quả trung hòa BA.2.75.2 so với biến thể BA.5 hiện đang chiếm ưu thế. Các mẫu huyết thanh được thu thập vào ba thời điểm: Vào tháng 11 năm ngoái trước khi xuất hiện omicron, vào tháng 4 sau một đợt nhiễm trùng lớn trong nước và vào cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 sau khi biến thể BA.5 trở nên chiếm ưu thế.
Theo nghiên cứu, chỉ một trong những phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng có sẵn trên lâm sàng đã được thử nghiệm, bebtelovimab, có thể vô hiệu hóa mạnh mẽ biến thể mới. Các kháng thể đơn dòng được sử dụng làm phương pháp điều trị kháng vi-rút cho những người có nguy cơ cao phát triển COVID-19 nghiêm trọng.
BA.2.75.2 là một phiên bản đột biến của một biến thể omicron khác, BA.2.75. Kể từ lần đầu tiên được phát hiện vào đầu mùa thu năm nay, nó đã lây lan sang một số quốc gia nhưng cho đến nay chỉ đại diện cho một số ít các trường hợp đã đăng ký.
Ben Murrell giải thích: “Hiện tại chúng tôi thấy đây chỉ là một trong số các biến thể mới nổi với các đột biến tương tự. Không rõ liệu biến thể mới này có làm tăng tỷ lệ nhập viện hay không. Ngoài ra, mặc dù các loại vắc-xin hiện tại nói chung có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh nặng do nhiễm trùng omicron, nhưng vẫn chưa có dữ liệu cho thấy mức độ mà vắc- xin COVID cập nhật cung cấp sự bảo vệ khỏi các biến thể mới này”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-10-omicron-subvariant-largely-evades-neutralizing.html, 14/10/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/bien-the-phu-omicron-coronavirus-ba-2-75-2-phan-lon-tranh-duoc-cac-khang-the-trung-hoa-5685.html)
SỰ GIA TĂNG CÁC BIẾN CHỨNG LIÊN QUAN ĐẾN THAI NGHÉN TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Cập nhật: ngày 23-8-2022
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những căng thẳng chưa từng có đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ và dẫn đến việc giảm khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, cũng như ít theo dõi những biến chứng tiềm ẩn liên quan đến thai kỳ. COVID-19 ảnh hưởng đến kết quả mang thai như thế nào; đặc biệt là ở những người có thu nhập thấp và những người thuộc các nhóm chủng tộc và dân tộc thiểu số, vẫn chưa được biết rõ, rất ít nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra tác động của đại dịch COVID-19 đối với kết quả sản khoa ở cấp quốc gia.
Theo bài báo được xuất bản trên tạp chí JAMA Network Open, nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Harvard đã đánh giá các biến chứng liên quan đến thai nghén và kết quả sản khoa đã thay đổi như thế nào trước và sau đại dịch. Nhìn vào những thay đổi tương đối trong phương thức sinh, tỷ lệ sinh non và kết quả tử vong trước đó so với thời kỳ đại dịch, họ nhận thấy tỷ lệ tử vong của các bà mẹ khi nhập viện; rối loạn tim mạch; xuất huyết sản khoa trong đại dịch tăng lên.
Tác giả nghiên cứu, bác sĩ Rose L. Molina, cho biết: Nghiên cứu này chứng minh đại dịch COVID-19 ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe của những người mang thai. Chúng tôi đã phân tích dữ liệu từ hơn 1,6 triệu bệnh nhân mang thai đã sinh con tại 463 bệnh viện Hoa Kỳ trong 14 tháng trước khi COVID-19 và trong 14 tháng đầu tiên của đại dịch. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm nhân khẩu học của hai nhóm, bao gồm tuổi tác, chủng tộc và dân tộc, các loại hình bảo hiểm và bệnh đồng mắc.
Phù hợp với các báo cáo từ Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, nhóm nghiên cứu cho thấy mẹ tử vong khi nhập viện sinh tăng từ 5,17 ca tử vong trên 100.000 bệnh nhân mang thai trước đại dịch lên 8,69 ca tử vong trên 100.000 bệnh nhân mang thai trong đại dịch, một sự gia tăng nhỏ nhưng có ý nghĩa thống kê. Và tăng tỷ lệ mắc chứng rối loạn tăng huyết áp và xuất huyết. Họ cho rằng sự gia tăng liên quan đến các kết quả kém chứng tỏ rằng đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc chăm sóc sản khoa và kết quả liên quan đến thai nghén.
Bác sĩ Rose L. Molina giải thích: “Trong khi chăm sóc sản khoa tại bệnh viện vẫn là một dịch vụ thiết yếu trong đại dịch COVID-19, chăm sóc trước khi sinh cho bệnh nhân ngoại trú đã trải qua những gián đoạn đáng kể và hầu như không có nhiều dịch vụ chăm sóc tiền sản định kỳ được thực hiện. Có thể những gián đoạn và hạn chế này trong việc theo dõi qua telehealth có thể đã góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng tăng huyết áp liên quan đến thai kỳ. Ngoài ra, tỷ lệ rối loạn tăng huyết áp gia tăng có thể do căng thẳng gia tăng do đại dịch gây ra”.
Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy thời gian lưu lại bệnh viện được rút ngắn, đặc biệt là sau khi sinh mổ trong đợt đại dịch do bác sĩ sản khoa và bệnh nhân đã cố gắng giảm thiểu sự lây lan. Và tỷ lệ nhiễm trùng huyết giảm trong đại dịch, có thể là kết quả của việc tăng cường sát khuẩn tay và đeo khẩu trang do COVID-19. Các nhà khoa học quan sát thêm rằng tỷ lệ sinh non và phương thức sinh (âm đạo, mổ lấy thai hoặc kẹp/hút chân không) vẫn ổn định. Sự chênh lệch về chủng tộc và dân tộc được ghi nhận đầy đủ trong các kết quả sản khoa vẫn tồn tại nhưng không trở nên tồi tệ hơn trong đại dịch trong tập dữ liệu này.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-08-nationwide-pregnancy-related-complications-covid-pandemic.html, 12/8/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/su-gia-tang-cac-bien-chung-lien-quan-den-thai-nghen-trong-dai-dich-covid-19-5377.html)
LIỀU VẮC-XIN THỨ BA GIÚP LÀM TĂNG KHẢ NĂNG BẢO VỆ KHỎI CHỦNG CORONAVIRUS OMICRON
Cập nhật: ngày 06-7-2022
Vắc-xin mRNA được sử dụng để đẩy lùi COVID nhưng chưa chống lại được biến thể omicron, là chủng coronavirus hiện đang chiếm ưu thế. Tuy nhiên, những người tiêm liều thứ ba dường như được bảo vệ khỏi biến chứng xấu của chủng omicron. Khi phân tích mẫu máu từ bệnh nhân được tiêm vắc-xin tăng cường, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng liều thứ ba kích hoạt các tế bào nhớ B để tạo ra kháng thể mạnh và linh hoạt giúp vô hiệu hóa cả vi-rút gốc và nhiều biến thể của nó.
Đồng tác giả nghiên cứu Theodora Hatziioannoucho biết: “Với mỗi lần tiếp xúc với kháng nguyên, chúng tôi nhận thấy sự cải thiện trong ngăn tế bào nhớ B và liều thứ ba cũng không ngoại lệ. Và mặc dù hàm ý của phát hiện này là cả nhiễm trùng và tiêm chủng đều tăng cường ngăn tế bào bộ nhớ B”.
Các nhà khoa học hy vọng rằng vắc-xin COVID sẽ tạo ra kháng thể giúp bảo vệ lâu dài và chống lại các biến thể mới. Vắc-xin phòng bệnh đậu mùa và cúm Tây Ban Nha được cho là có khả năng tạo ra miễn dịch kéo dài hàng thập kỷ. Nhưng những nghiên cứu ban đầu về cách vắc-xin mRNA tác động đến khoang bộ nhớ chưa có nhiều hiệu quả. Trong khi việc nhiễm vi-rút gây ra phản ứng tế bào bộ nhớ B mạnh mẽ ở những người sống sót, có các kháng thể tiếp tục phát triển trong một năm sau khi nhiễm bệnh, một số nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng kháng thể ở những người chỉ tiêm vắc-xin có thể không phát triển ở mức độ tương tự. Các phản hồi của tế bào nhớ B bất hoạt như vậy sẽ khiến cho các biến thể được cấy dễ bị tấn công hơn.
Tuy nhiên, khi dữ liệu từ các liều tiếp theo bắt đầu được đưa vào, rõ ràng là có khác biệt về các mũi tiêm nhắc lại. Kiểm tra mẫu từ những người đã tiêm liều thứ hai và thứ ba, hoạt động trung hòa chống lại omicron tăng gấp 30 đến 200 lần, tiêm chủng cũng tạo ra kháng thể mạnh mẽ và linh hoạt.
Nghiên cứu gần đây nhất đã kiểm tra mẫu máu của những người được tiêm ba liều vắc-xin mRNA và phát hiện ra rằng hơn 50% kháng thể nhớ xuất hiện sau liều thứ ba đã trung hòa omicron. Theodora Hatziioannou nói, “mặc dù liều thứ hai tạo ra nhiều kháng thể linh hoạt hơn liều đầu tiên, nhưng phải đến liều thứ ba, kháng thể mạnh mới thực sự hoạt động. Liều thứ ba có ảnh hưởng toàn cầu, tạo ra kháng thể mạnh và rộng nhất. Với liều thứ ba, chúng tôi thấy không chỉ tăng sản xuất kháng thể trưởng thành mà còn cả kháng thể không nhìn thấy sau liều thứ hai”. Liều thứ ba là chìa khóa để tăng cường hệ thống miễn dịch và ngăn ngừa nhiễm trùng nghiêm trọng. Nghiên cứu của chúng tôi có thể được coi là lời giải thích lý do tại sao nên tiêm liều thứ ba.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-06-vaccine-dose-omicron.html, 23/6/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/lieu-vac-xin-thu-ba-giup-lam-tang-kha-nang-bao-ve-khoi-chung-coronavirus-omicron-5197.html)
VẮC-XIN CÓ HIỆU LỰC LÊN ĐẾN 90% TRONG VÒNG 6 THÁNG KHI BỊ COVID-19 NẶNG
Cập nhật: ngày 15-06-2022
Theo một nghiên cứu gần đây về Bệnh truyền nhiễm BMC của các nhà khoa học thuộc Đại học Y bang Penn-Hoa Kỳ. Họ đã phân tích dữ liệu từ 7 triệu người chưa và đã tiêm chủng. Sử dụng vắc-xin COVID-19 của Pfizer-BioNTech, Moderna hoặc Johnson & Johnson. Sau đó tiến hành đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp, kiểm tra 18 nghiên cứu được đánh giá ngang hàng công bố từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 11 năm 2021, trước khi xuất hiện biến thể omicron thống trị đợt đại dịch gần đây nhất ở Hoa Kỳ.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, hơn 577 triệu liều vắc-xin COVID-19 đã được tiêm trên toàn quốc. Những người được tiêm chủng có thể thắc mắc rằng vắc-xin cung cấp khả năng bảo vệ chống lại coronavirus trong bao lâu. Trong phân tích của họ, các nhà nghiên cứu xác định vắc-xin cung cấp khả năng bảo vệ đáng kể chống lại COVID-19, nhưng hiệu quả giảm dần theo thời gian. Kết quả cho thấy sau khi tiêm chủng đầy đủ, khả năng miễn dịch chống lại nhiễm COVID-19 giảm từ 83% sau tháng đầu tiên xuống 22% sau năm tháng hoặc hơn.
Nghiên cứu bao gồm dữ liệu về người lớn và trẻ em, từ 12 tuổi trở lên. Kết quả cho thấy những người tiêm vắc-xin Moderna được bảo vệ ở mức độ cao nhất. Sau đó là nhóm tiêm đủ hai liều vắc-xin Moderna hoặc Pfizer, và nhóm tiêm một liều vắc-xin Johnson & Johnson. Các nhà nghiên cứu không có dữ liệu sau sáu tháng và nghiên cứu không bao gồm dữ liệu về vắc-xin tăng cường.
Tác giả cao cấp Tiến sĩ Catharine Paules cho biết: “Thật yên tâm khi thấy rằng các cá nhân được tiêm chủng COVID-19 duy trì khả năng bảo vệ khỏi nhập viện và tử vong theo thời gian ngay cả khi hiệu quả chống lại nhiễm trùng suy giảm. Cần có thêm dữ liệu cụ thể để bảo vệ chống lại biến thể omicron.”
Các nhà khoa học cho biết vắc-xin vẫn có hiệu quả 90% đối với COVID nghiêm trọng trong tối đa sáu tháng. Tuy nhiên, khả năng bảo vệ chống lại COVID-19 nghiêm trọng thấp hơn (74%) đối với những người đã tiêm vắc-xin Johnson & Johnson. Theo nghiên cứu, khả năng miễn dịch chống lại COVID-19 giảm nhanh hơn đối với những người từ 65 tuổi trở lên bất kể họ đã tiêm loại vắc-xin nào.
Tác giả chính của nghiên cứu Tiến sĩ Paddy Ssentongo cho biết: “Điều quan trọng cần lưu ý là tỷ lệ suy giảm hiệu quả của vắc-xin chống lại COVID-19 là không đồng đều. Người cao tuổi có tỷ lệ suy giảm hiệu quả cao hơn. Các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc chỉ ra cách thức bảo vệ vắc-xin kéo dài đối với các bệnh đi kèm khác nhau và tình trạng ức chế miễn dịch”.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hiệu quả tổng thể có thể phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm loại vắc-xin, tuổi bệnh nhân, các biến thể mới nổi và khu vực địa lý. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh, các liều vắc-xin tiếp theo được khuyến cáo khi thời gian trôi qua để giúp tăng cường khả năng miễn dịch và giảm thiểu mối đe dọa của COVID-19. Bằng chứng cho thấy liều tăng cường có thể tăng khả năng bảo vệ trong thời gian ngắn chống lại nhiễm trùng COVID-19 và bệnh có triệu chứng.
Tiến sĩ Paddy Ssentongo cho biết: “Vắc-xin COVID-19 rất quan trọng để chấm dứt đại dịch và ngay cả khi hiệu quả chống lại sự lây nhiễm của chúng suy giảm, chúng vẫn cung cấp sự bảo vệ chính và quan trọng chống lại căn bệnh COVID-19 nghiêm trọng. Các nghiên cứu trong tương lai sẽ cần khám phá sự phát triển của hiệu quả chống lại omicron và các trường hợp nhập viện liên quan đến biến thể mới hơn”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-06-vaccines-efficacy-severe-covid-months.html, 3/6/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-co-hieu-luc-len-den-90-trong-vong-6-thang-khi-bi-covid-19-nang-5122.html)
NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠI DỊCH COVID-19 VÀ PHƯƠNG ÁN PHÒNG CHỐNG ĐẶC THÙ
Cập nhật: ngày 09-05-2022
Công trình của TS.BS Phạm Quang Thái đưa ra sớm nhất thông tin dịch bệnh, bằng chứng lây nhiễm góp phần điều chỉnh chiến lược phòng chống Covid-19 tại Việt Nam. Nghiên cứu này vừa được đề cử xét Giải chính – giải thưởng Tạ Quang Bửu 2022.
Khi thế giới còn chưa hiểu nhiều về chủng virus corona mới gây ra dịch Covid-19, TS.BS Phạm Quang Thái, Phó trưởng khoa kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cùng các cộng sự đã đưa ra những bằng chứng quan trọng về việc virus dễ dàng lây lan từ người sang người và ở giai đoạn sớm, chưa biểu hiện triệu chứng. Thời điểm đó, ngoài một vài bài báo của Trung Quốc nơi phát hiện những ca bệnh đầu tiên, chưa có một quốc gia nào đưa ra bức tranh đầy đủ về đại dịch cũng như phương án phòng chống đặc thù như vậy.
Nghiên cứu nhìn lại kết quả 100 ngày đầu tiên kiểm soát dịch Covid-19 tại Việt Nam, trong đó phân tích các yếu tố liên quan và đưa ra bài học kinh nghiệm trong chống dịch. Nhóm đã phân tích dữ liệu lâm sàng và nhân khẩu học về 270 ca nhiễm đầu tiên, cũng như biện pháp kiểm soát của chính phủ, bao gồm số lượng các xét nghiệm, các trường hợp bị cách ly. Để ước lượng mức độ di chuyển của dân số, nhóm sử dụng dữ liệu di động của Apple và Google cung cấp. Họ cũng sử dụng dữ liệu để ước tính tỷ lệ của ca nhiễm không triệu chứng, mức độ lan truyền và ước tính các giá trị khác nhau của số phát sinh dịch (R0). Những kết quả này có ý nghĩa lớn cho ước tính chu kỳ lây cũng như quy mô của dịch sau này. Nhờ đó quy mô dịch tại Đà Nẵng ở làn sóng thứ 2 Covid-19 tại Việt Nam cũng như tại Hải Dương đầu năm 2021 ước tính được mức độ và phạm vi lây nhiễm.
Tác giả cũng đưa ra những bằng chứng quan trọng trong việc kết luận bệnh có thể lây truyền từ những cá thể nhiễm bệnh nhưng không có biểu hiện triệu chứng. Thời kì đầu đại dịch, người ta chỉ nghĩ rằng bệnh lây truyền từ động vật sang người và lây truyền ở người có triệu chứng. Song với kinh nghiệm từng trực tiếp tham gia chống dịch SARS năm 2003, tác giả đã nhanh chóng so sánh hai loại virus này. Khi dịch SARS xuất hiện, con đường lây nhiễm chủ yếu qua giọt bắn, điều hòa không gian kín với tỷ lệ tử vong cao tới 20%. Loại virus có mức độ tử vong cao và triệu chứng rõ ràng, SARS không thể gây ra đại dịch. Nhưng SARS-CoV-2 lại khác. Ở thời điểm WHO vẫn chậm trễ trong việc đưa ra cách thức lây truyền virus, thông điệp ấy đã làm thay đổi quan điểm của giới khoa học cũng như công tác cách ly khống chế dịch. Hiểu biết về cách lây truyền và bản chất của virus góp phần quan trọng cho khoa học bởi nếu không biết khả năng lây nhiễm sẽ không thể đưa chiến lược ứng phó.
Công trình lập tức gây chú ý khi đăng tải trên tạp chí hàng đầu về bệnh truyền nhiễm Clinical Infectious Diseases (Mỹ). Nghiên cứu cũng được trích dẫn 66 lần ở các bài báo đăng trên tạp chí khoa học và được nhắc lại trên các kênh truyền thông quốc tế như CNN, BBC, The Washington Post… như một thành công của chiến lược chống dịch tại Việt Nam. Thời điểm ấy, phát hiện của nhóm nghiên cứu đã góp phần lớn vào công tác phòng chống dịch như thay đổi chiến lược sàng lọc tại sân bay: kiểm soát người di chuyển qua đường hàng không, biên giới, cách ly cẩn trọng, xét nghiệm thay vì chỉ đo thân nhiệt. Nhờ công tác truy vết kỹ càng kết hợp với kiểm dịch nghiêm ngặt và các biện pháp hạn chế đi lại quốc tế giúp Việt Nam khống chế dịch an toàn trong một năm đầu tiên, trước khi có sự xuất hiện của chủng Delta và tiếp cận được vaccine.
Thời gian tới, nhóm tiếp tục nghiên cứu các biện pháp để thích ứng an toàn, dự phòng cũng như ngăn chặn nguy cơ tiềm ẩn dịch bệnh trong tương lai.
P.A.T (Tổng hợp)
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-ve-dai-dich-covid-19-va-phuong-an-phong-chong-dac-thu-4947.html)
Tại sao Covid-19 lại làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở một số người?
Cập nhật: ngày 06-05-2022
Các nghiên cứu gần đây cho thấy nhiễm coronavirus có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 hoặc hiếm hơn là bệnh tiểu đường loại 1 ở một số người. GS. Pr Eric Renard, Trưởng khoa tiểu đường tại Bệnh viện Đại học Montpellier (Pháp), đã đưa ra lời giải thích dưới đây.
Các nhà khoa học đã chú ý đến nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường sau khi nhiễm trùng Sars-Cov2. Được công bố vào ngày 21 tháng 3 năm 2022, một nghiên cứu của Mỹ trên 200.000 người cho thấy bệnh tiểu đường có thể là một di chứng của bệnh nhiễm trùng. Một công trình nghiên cứu khác, được thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu người Đức và được công bố trên tạp chí Diabetologia vào ngày 16 tháng 3 năm 2022, so sánh hai nhóm bệnh nhân sau khi họ tham vấn với một bác sĩ đa khoa: nhóm đầu tiên bị nhiễm Covid, nhóm thứ hai bị nhiễm trùng đường hô hấp do một loại vi rút không phải là coronavirus. Kết quả: nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 tăng 28% ở nhóm thứ nhất so với nhóm thứ hai.
Cộng đồng các bác sĩ điều trị cho bệnh nhân tiểu đường đang rất quan tâm vấn đề này. Theo GS. Eric Renard, Phó chủ tịch của Hiệp hội Đái tháo đường ở Pháp, cần phải phân biệt hai tình huống: một mặt, bệnh tiểu đường loại 2 xảy ra mà không thực sự gây ngạc nhiên ở những bệnh nhân dễ mắc, mặt khác, các trường hợp bệnh tiểu đường loại 1 bất ngờ hơn ở trẻ em, thanh thiếu niên hoặc đôi khi người lớn.
Phần lớn các trường hợp mắc bệnh tiểu đường xuất hiện sau Covid là “loại 2”. Điều này cho thấy nguy cơ ở những bệnh nhân mắc Covid có thể dẫn đến mắc bệnh tiểu đường loại 2. Căn bệnh này thường xảy ra vào độ tuổi khoảng 50 tuổi, ở những người thừa cân và ít vận động, hoặc những người có tiền sử gia đình. Dần dần, lượng đường trong máu của họ (glycaemia) bắt đầu tăng lên. Cơ thể của họ đề kháng với insulin, hormone chịu trách nhiệm điều chỉnh lượng đường trong máu suốt cả ngày. Ở những người này, các tế bào beta, trong tuyến tụy, tiết ra insulin, không bị phá hủy. Chúng tiếp tục hoạt động, nhưng có những hạn chế.
Bệnh tiểu đường loại 2 này tiến triển mà không có triệu chứng. Chỉ có xét nghiệm đường huyết mới có thể tiết lộ điều đó. Người bệnh bắt đầu phát triển tiền tiểu đường, đặc trưng bởi lượng đường trong máu lúc đói được đo nhiều lần trong khoảng từ 1 đến 1,25 gam mỗi lít (g/l). Giáo sư Renard cho biết: “Người ta ước tính rằng hiện nay ở Pháp có khoảng 500.000 đến 1 triệu người bị tiền tiểu đường. Chẩn đoán bệnh tiểu đường được thực hiện khi lượng đường trong máu lúc đói được đo ít nhất hai lần trên 1,26 g/l.
Trước đó, nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Chăm sóc y tế St. Louis của Bộ Cựu chiến binh Mỹ (VA) đã đánh giá hồ sơ bệnh án của 181.000 bệnh nhân thuộc bộ trên được chẩn đoán mắc COVID-19 trong giai đoạn từ ngày 1/3/2020-30/9/2021. Ngay cả những người mắc COVID-19 có triệu chứng nhẹ hoặc hoàn toàn không triệu chứng cũng có thể phát triển bệnh tiểu đường tuýp 2. Nguy cơ này gia tăng tỷ lệ thuận với mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng COVID-19. Những người mắc COVID-19 có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 trong vòng một năm cao hơn những người không mắc.
P.A.T (NASATI), theo https://www.santemagazine.fr/, 20/4/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tai-sao-covid-19-lai-lam-tang-nguy-co-mac-benh-tieu-duong-o-mot-so-nguoi-4923.html)
TÁC ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG CỦA COVID-19 ĐẾN NÃO, NGAY CẢ Ở NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÓ CÁC TRIỆU CHỨNG HÔ HẤP NGHIÊM TRỌNG
Cập nhật: ngày 19-04-2022
Bệnh nhân COVID-19 thường kêu bị đau đầu, lú lẫn và các triệu chứng thần kinh khác, nhưng các bác sĩ vẫn chưa hiểu rõ cách COVID-19 tác động đến não trong quá trình nhiễm bệnh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Tulane, Hoa Kỳ đã xác định chi tiết cách COVID-19 ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Phát hiện này là đánh giá toàn diện đầu tiên về bệnh lý thần kinh do nhiễm virus SARS-CoV-2 trong mô hình linh trưởng. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Communications.
Nhóm nghiên cứu xác định tình trạng viêm và tổn thương não nghiêm trọng liên quan đến việc giảm lưu lượng máu hoặc oxy lên não, bao gồm tổn thương tế bào thần kinh và tử vong. Ngoài ra, họ còn quan sát thấy những vết máu nhỏ trong não linh trưởng. Đáng ngạc nhiên, những phát hiện này cũng giống như ở những bệnh nhân COVID-19 không có các triệu chứng đường hô hấp nghiêm trọng khi bị nhiễm vi rút.
TS. Tracy Fischer cho biết: “Do các bệnh nhân COVID-19 không gặp phải các triệu chứng đường hô hấp nặng, nên không ai nghĩ họ bị di chứng nghiêm trọng trong não. Tuy nhiên, các phát hiện rất khác biệt và rõ nét nên không thể phủ nhận là kết quả của tình trạng nhiễm trùng“.
Phát hiện của nghiên cứu cũng phù hợp với kết quả khám nghiệm tử thi những người đã chết vì COVID-19, cho thấy các loài linh trưởng có thể đóng vai trò như một mô hình phù hợp hoặc đại diện cho cách con người trải qua căn bệnh này.
Các biến chứng thần kinh thường là một trong những triệu chứng đầu tiên của tình trạng nhiễm virus SARS-CoV-2, có thể kéo dài dai dẳng và diễn biến nặng. Chúng cũng ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi theo cách khác nhau, dù họ có hoặc không có bệnh nền.
Các tác giả hy vọng nghiên cứu này và các nghiên cứu trong tương lai đề cập đến ảnh hưởng của virus SARS-CoV-2 đến não, sẽ góp phần cung cấp hiểu biết và đưa ra hướng điều trị cho những bệnh nhân mắc phải hậu quả thần kinh do hậu COVID.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/covid-19s-severe-impacts-on-the-brain-even-in-people-that-did-not-experience-serious-respiratory-symptoms/, 1/4/2022
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tac-dong-nghiem-trong-cua-covid-19-den-nao-ngay-ca-o-nhung-nguoi-khong-co-cac-trieu-chung-ho-hap-nghiem-trong-4847.html)
TÁC ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG CỦA COVID-19 ĐẾN NÃO, NGAY CẢ Ở NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÓ CÁC TRIỆU CHỨNG HÔ HẤP NGHIÊM TRỌNG
Cập nhật: ngày 13-04-2022
Bệnh nhân COVID-19 thường kêu bị đau đầu, lú lẫn và các triệu chứng thần kinh khác, nhưng các bác sĩ vẫn chưa hiểu rõ cách COVID-19 tác động đến não trong quá trình nhiễm bệnh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Tulane, Hoa Kỳ đã xác định chi tiết cách COVID-19 ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Phát hiện này là đánh giá toàn diện đầu tiên về bệnh lý thần kinh do nhiễm virus SARS-CoV-2 trong mô hình linh trưởng. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Communications.
Nhóm nghiên cứu xác định tình trạng viêm và tổn thương não nghiêm trọng liên quan đến việc giảm lưu lượng máu hoặc oxy lên não, bao gồm tổn thương tế bào thần kinh và tử vong. Ngoài ra, họ còn quan sát thấy những vết máu nhỏ trong não linh trưởng. Đáng ngạc nhiên, những phát hiện này cũng giống như ở những bệnh nhân COVID-19 không có các triệu chứng đường hô hấp nghiêm trọng khi bị nhiễm vi rút.
TS. Tracy Fischer cho biết: “Do các bệnh nhân COVID-19 không gặp phải các triệu chứng đường hô hấp nặng, nên không ai nghĩ họ bị di chứng nghiêm trọng trong não. Tuy nhiên, các phát hiện rất khác biệt và rõ nét nên không thể phủ nhận là kết quả của tình trạng nhiễm trùng“.
Phát hiện của nghiên cứu cũng phù hợp với kết quả khám nghiệm tử thi những người đã chết vì COVID-19, cho thấy các loài linh trưởng có thể đóng vai trò như một mô hình phù hợp hoặc đại diện cho cách con người trải qua căn bệnh này.
Các biến chứng thần kinh thường là một trong những triệu chứng đầu tiên của tình trạng nhiễm virus SARS-CoV-2, có thể kéo dài dai dẳng và diễn biến nặng. Chúng cũng ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi theo cách khác nhau, dù họ có hoặc không có bệnh nền.
Các tác giả hy vọng nghiên cứu này và các nghiên cứu trong tương lai đề cập đến ảnh hưởng của virus SARS-CoV-2 đến não, sẽ góp phần cung cấp hiểu biết và đưa ra hướng điều trị cho những bệnh nhân mắc phải hậu quả thần kinh do hậu COVID.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/covid-19s-severe-impacts-on-the-brain-even-in-people-that-did-not-experience-serious-respiratory-symptoms/, 1/4/2022
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tac-dong-nghiem-trong-cua-covid-19-den-nao-ngay-ca-o-nhung-nguoi-khong-co-cac-trieu-chung-ho-hap-nghiem-trong-4847.html)
TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 ĐẾN ĐÓNG CỬA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
Cập nhật: ngày 25-03-2022
Đại dịch Covid-19 và các biện pháp ngăn chặn lây lan đã dẫn đến việc đóng cửa tạm thời hoặc vĩnh viễn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Trong nhiều trường hợp, đây là kết quả của các biện pháp ngăn chặn, nơi các doanh nghiệp không thiết yếu buộc phải đóng cửa trong thời gian phong tỏa. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác, chính những thách thức trong chuỗi cung ứng và bán hàng đã khiến các DNVVN phải đóng cửa hoạt động kinh doanh của họ, ít nhất là tạm thời.
Dữ liệu từ các quốc gia được OECD lựa chọn cho thấy tỷ lệ đóng cửa của các DNVVN thế giới tăng mạnh trong đợt đại dịch đầu tiên. Dữ liệu từ Hoa Kỳ cho thấy rằng, trong quý 2 có 1,4 triệu doanh nghiệp nhỏ đóng cửa, vĩnh viễn hoặc tạm thời và cho thấy rằng năm 2020, tổng số 4 triệu doanh nghiệp nhỏ có thể đóng cửa (Catalyst, 2020). Một cuộc khảo sát quy mô lớn trên toàn thế giới do Tổ chức Lao động Quốc tế thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2020, cho thấy chỉ 1/5 doanh nghiệp được khảo sát hoạt động hoàn toàn tại chỗ trong thời gian này (ILO, 2020).
Khảo sát Tương lai của Doanh nghiệp do Facebook, OECD và Ngân hàng Thế giới thu thập, cho thấy mối tương quan giữa tỷ lệ đóng cửa các DNVVN và mức độ nghiêm ngặt của các biện pháp phong tỏa của chính phủ, được đo lường bởi Chỉ số Lockdown Stringency Index của Đại học Oxford, trong đợt đầu tiên của đại dịch.
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng cửa các DNVVN không giảm sau làn sóng đầu tiên của đại dịch và các biện pháp ngăn chặn dần dần được dỡ bỏ. Ví dụ, ở Hà Lan, số công ty bị gián đoạn hoạt động cao hơn 40% trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019, nhưng đặc biệt tăng mạnh sau tháng 6 năm 2020 khi các biện pháp ngăn chặn được nới lỏng (KVK, 2020), với mức đóng cửa của công ty vào năm 2020 cao hơn 20% so với năm 2019. Dữ liệu từ Hoa Kỳ cũng cho thấy tỷ lệ đóng cửa doanh nghiệp tăng trở lại sau tháng 6 năm 2020, mức đóng cửa tạm thời trở thành đóng cửa vĩnh viễn tăng lên. Tại Trung Quốc, ít nhất 3 triệu doanh nghiệp nhỏ đã đóng cửa từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2020, mặc dù các biện pháp phong tỏa đã được dỡ bỏ vào tháng 4 năm 2020.
Mặc dù dữ liệu về việc đóng cửa doanh nghiệp vẫn chưa có đầy đủ đối với nhiều quốc gia, nhưng rõ ràng là sau hai năm kể từ khi bắt đầu đại dịch, tác động của tỷ lệ đóng cửa DNVVN là rất lớn. Tại Hoa Kỳ, số lượng doanh nghiệp nhỏ mở cửa liên tục giảm trong nửa cuối năm 2020 và con số này thấp hơn 33,6% vào tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Tại Mexico, cơ quan thống kê quốc gia INEGI đã báo cáo vào tháng 12 năm 2020 rằng hơn 1 triệu DNVVN đã đóng cửa vĩnh viễn kể từ giữa năm ngoái, chiếm 20,8% tổng số SME (Mexico News Daily, 2020). Các biện pháp phong tỏa được gia hạn ở nhiều quốc gia được áp dụng vào mùa thu năm 2020 và tiếp tục trong những tháng đầu năm 2021 tiếp tục ảnh hưởng đến tỷ lệ đóng cửa các DNVVN. Ví dụ, ở Canada, vào tháng 3 năm 2021, 35% doanh nghiệp nhỏ vẫn đóng cửa.
Mất khả năng thanh toán
Trong khi đại dịch khiến nhiều DNVVN phải ngừng hoạt động, nhưng trong hầu hết các trường hợp, điều này không dẫn đến việc gia tăng tình trạng mất khả năng thanh toán năm 2020. Số lượng các vụ phá sản trong quý I và quý II năm 2020 và bằng chứng rằng trên thực tế, tình trạng phá sản thường giảm trong giai đoạn này. Nhiều nghiên cứu dự đoán rằng từ nửa cuối năm 2020 trở đi, xu hướng phá sản này sẽ chuyển biến, với tỷ lệ vỡ nợ ngày càng tăng. Tuy nhiên, dù một số quốc gia đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ phá sản (Israel, Nhật Bản, Hoa Kỳ), một năm sau đại dịch, đối với hầu hết các quốc gia, đây không phải là trường hợp phổ biến.
Ví dụ, ở Vương quốc Anh, tỷ lệ phá sản trong quý 4 năm 2020 thấp hơn 27% so với quý 4 năm 2019 và thấp hơn kể từ quý 2 năm 2020 so với bất kỳ quý nào kể từ năm 1990 (The Insolvency Service, 2021). Tại Hà Lan, số vụ phá sản vào tháng 11 năm 2020 là thấp nhất trong 20 năm và ít hơn 16% so với năm 2019, giảm liên tục trong 5 tháng liên tiếp (CBS, 2020). Tại Đức, Chỉ số Mất khả năng thanh toán đã giảm 40 điểm trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2020 (Reuters, 2020). Theo Statistics Canada, tỷ lệ vỡ nợ đã giảm 29,5% năm 2020 so với năm 2019. Tại Thụy Sĩ, hồ sơ phá sản năm 2020 thấp hơn 19% so với năm 2019 (Eckert, Mikosch và Stotz, 2020). Tại Pháp, số vụ vỡ nợ năm 2020 thấp hơn 24% so với năm 2019.
Lý do cho sự khác biệt về tỷ lệ phá sản: thứ nhất, sự khác biệt thể hiện rằng độ co giãn của khả năng mất khả năng thanh toán được gọi là độ co giãn của khả năng mất khả năng thanh toán (tỷ lệ % khả năng mất khả năng thanh toán đối với sự thay đổi 1% GDP) là khác nhau giữa các quốc gia (Atradius, 2020). Thứ hai, và có thể là quan trọng nhất, tỷ lệ phá sản giảm phản ánh các phản ứng chính sách của chính phủ đối với COVID-19: các biện pháp can thiệp của chính phủ như hoãn thuế, trả nợ và giảm lãi suất, mở rộng thời hạn trả nợ hỗ trợ công, giảm hoặc miễn phí xử lý và bảo lãnh cũng như trợ cấp lãi suất do các tổ chức bảo lãnh, đã ngăn cản hoặc trì hoãn các công ty phá sản hàng loạt. Số lượng các thủ tục phá sản có thể tăng lên một khi các kế hoạch này, và một lượng lớn thanh khoản do các chính phủ bơm vào, kết thúc; ngoài ra, các chính phủ khác nhau (ví dụ: Úc, Bỉ, Colombia, Đức, Ý, New Zealand, Bồ Đào Nha, Nga, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh) đã thực hiện các thay đổi tạm thời về chế độ phá sản và vỡ nợ được thiết kế để cung cấp tính linh hoạt hơn cho các công ty đang phải đối mặt thiếu hụt khả năng thanh toán tạm thời, trong một số trường hợp phải tạm dừng thủ tục phá sản. Các biện pháp này bao gồm việc nâng ngưỡng giới hạn nợ chưa thanh toán để bắt đầu phá sản và thay đổi các điều kiện để nộp đơn phá sản. Ví dụ, Đức là một trong những quốc gia có tỷ lệ vỡ nợ giảm nhiều hơn trong quý 3 năm 2020 phần lớn là do luật khuyến khích các công ty tái cấu trúc thay vì nộp đơn xin vỡ nợ và luật này đã được mở rộng cho năm 2021, có thể sẽ tác động đến số lượng các vụ vỡ nợ trong tương lai gần; cuối cùng là do các biện pháp hạn chế đi lại khiến nhiều hoạt động của các tòa án kinh doanh bị dừng lại, đặc biệt khi các hoạt động không được số hóa nhiều. Điều này thường dẫn đến sự chậm trễ trong việc đăng ký chính thức các trường hợp vỡ nợ.
Mặc dù đã trải qua hơn một năm đại dịch, tỷ lệ phá sản của các DNVVN vẫn ở mức khiêm tốn, nhưng có khả năng tỷ lệ này sẽ tăng lên trong giai đoạn tới, cũng ở những quốc gia chưa xảy ra trường hợp này. Dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh cho thấy gần 25% doanh nghiệp đóng cửa vào tháng 4 năm 2021 (Trung tâm Hiệu suất Kinh tế, 2021). Euler Hermes và Atradius, hai công ty bảo hiểm tín dụng, dự kiến tỷ lệ vỡ nợ sẽ tăng mạnh vào năm 2021. Do đó, cuộc khủng hoảng COVID-19 có thể khiến tình trạng mất khả năng thanh toán tăng đột biến và điều tồi tệ nhất có thể sẽ xảy ra.
P.A.T (NASATI), theo An in-depth analysis of one year of SME and entrepreneurship policy responses to COVID-19, OECD 2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tac-dong-cua-covid-19-den-dong-cua-doanh-nghiep-vua-va-nho-va-kha-nang-thanh-toan-4793.html)
TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 ĐẾN CÁC CÔNG TY
KHỞI NGHIỆP, DOANH NGHIỆP PHI CHÍNH THỨC, TỰ DOANH, NỮ DOANH NGHIỆP VÀ DOANH NHÂN THIỂU SỐ
Cập nhật: ngày 22-03-2022
Một số nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và doanh nhân đặc biệt dễ bị tổn thương và bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Covid-19, bao gồm: các công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp phi chính thức, tự doanh, nữ doanh nghiệp và doanh nhân thiểu số.
Các công ty trẻ và các công ty khởi nghiệp
Các công ty khởi nghiệp là một trong những DNVVN bị ảnh hưởng nhiều nhất và dễ bị tổn thương nhất khi bắt đầu đại dịch. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng, hơn 40% các dự án kinh doanh mới rơi vào cái gọi là “vùng đỏ” với tiền mặt để duy trì hoạt động trong ba tháng hoặc ít hơn (Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2020). Họ có thể bị ảnh hưởng đặc biệt bởi sự lo lắng rủi ro ngày càng tăng của các nhà tài chính, do hồ sơ rủi ro cao của họ, đồng thời phải đối mặt với những hạn chế cụ thể trong việc tiếp cận hỗ trợ của chính phủ.
Nhiều cuộc khảo sát xác nhận rằng các công ty non trẻ được thành lập ngay trước cuộc khủng hoảng đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Ngay sau cuộc khủng hoảng, gần 3 trong 4 công ty khởi nghiệp chứng kiến doanh thu sụt giảm và vị thế thanh khoản của họ bị thách thức. 41% các công ty khởi nghiệp được khảo sát cho biết cần huy động vốn trong ba tháng tới để tồn tại (Startup Genome, 2020). Hơn nữa, các công ty khởi nghiệp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận hỗ trợ của chính phủ ngay sau cuộc khủng hoảng, vốn thường yêu cầu bằng chứng về sự tồn tại và đã có lãi trong những năm trước đó.
Làn sóng đầu tiên của đại dịch cũng khiến tỷ lệ khởi nghiệp giảm mạnh. Tỷ lệ khởi nghiệp vào tháng 3 và tháng 4 năm 2020 giảm 70% ở Bồ Đào Nha, 46% ở Hungary, 54% ở Pháp và 57% ở Thổ Nhĩ Kỳ so với cùng tháng của năm trước (Calvino, Criscuolo và Verlha, 2020). Ở Đức, tỷ lệ này đã giảm 9,4% trong nửa đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019, trong khi ở Vương quốc Anh, các hình thức kinh doanh mới giảm 19% vào tháng 3, 29% vào tháng 4 và 3% vào tháng 5 năm 2020.
Tuy nhiên, vào nửa cuối năm 2020, việc thành lập công ty mới bắt đầu phục hồi, mặc dù có sự khác biệt giữa các quốc gia. Ở một số quốc gia (như Úc, Chile, Hà Lan, New Zealand, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ), sự gia tăng đăng ký kinh doanh mới tiếp tục trong mùa hè và thậm chí còn tăng vọt trong nửa cuối năm 2020. Ở các quốc gia khác (Pháp, Hàn Quốc), sau khi tăng ban đầu trong mùa hè, tỷ lệ thành lập bắt đầu giảm trở lại từ tháng 8/2020, phản ánh những bất ổn ngày càng tăng liên quan đến làn sóng thứ hai và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mới. Tuy nhiên, với tổng mức tăng trưởng thành lập doanh nghiệp là 5,5%, năm 2020 vẫn là một năm kỷ lục đối với các doanh nghiệp mới ở Pháp, với mức tăng tiếp theo được ghi nhận vào tháng 2 năm 2021. Một số quốc gia đã có sự sụt giảm nhỏ về tỷ lệ khởi nghiệp trong năm 2020, chẳng hạn như Bỉ, Đức, Hungary và Ireland, trong khi ở các quốc gia khác, mức giảm là hơn 20% (Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha).
Vẫn chưa chắc chắn tỷ lệ khởi nghiệp sẽ tiếp tục phát triển như thế nào và nếu sự gia tăng của chúng phản ánh sự gia tăng “tinh thần kinh doanh cần thiết” như đã chứng kiến sau năm 2008 (so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu), với các các điều kiện lần này cơ bản thuận lợi hơn cho khởi nghiệp sáng tạo hơn. Thị trường tài trợ khởi nghiệp bùng nổ vào cuối năm 2020 ở một số quốc gia (chẳng hạn như Israel) có thể cho thấy rằng các liên doanh mới sáng tạo hơn đóng một vai trò nào đó. Nếu, do các biện pháp hạn chế được gia hạn vào cuối năm 2020 và đầu năm 2021, tỷ lệ khởi nghiệp giảm hơn nữa, thì tác động tiêu cực đến việc làm của những công ty có thể lớn, trong khi họ đóng góp lớn vào tạo việc làm và tầm quan trọng của họ đối với sự phục hồi kinh tế. Các mô phỏng sử dụng dữ liệu cấp doanh nghiệp của 15 quốc gia đã chứng minh rằng sự sụt giảm 20% số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường có liên quan đến việc mất việc làm 0,7% tổng số việc làm với hậu quả kéo dài trong ba năm sau cú sốc và 0,5% sau 14 năm sau cú sốc.
Doanh nghiệp phi chính thức (Informal enterprises)
Doanh nghiệp phi chính thức chiếm 70% tổng số việc làm ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, và khoảng 18% ở các nước có thu nhập cao (OECD/ILO, 2019). Các DNVVN phi chính thức phổ biến ở hầu hết các nền kinh tế mới nổi. Ở Mỹ Latinh, khu vực kinh tế phi chính thức chiếm gần một phần ba GDP, ở Ấn Độ là 50% GDP và hơn 60% GDP ở châu Phi cận Sahara. Hầu hết các doanh nghiệp phi chính thức có quy mô nhỏ với ít hơn 10 lao động, và các doanh nghiệp siêu nhỏ này chiếm hơn 80% việc làm trong khu vực phi chính thức (ILO, 2020). Các doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp phi chính thức đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng COVID-19.
Các DNVVN phi chính thức thường tạo ra mức thu nhập thấp và có vùng đệm tài chính hạn chế, khiến họ đặc biệt dễ bị tổn thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Ngoài ra, các DNVVN phi chính thức thường không có mối quan hệ với các ngân hàng và tổ chức công triển khai hỗ trợ, đặc biệt khó khăn cho họ trong việc tiếp cận hỗ trợ công.
Hầu hết các DNVVN phi chính thức có xu hướng làm việc trong lĩnh vực lưu trú, dịch vụ ăn uống và thương mại bán lẻ, điều này khiến họ đặc biệt dễ bị tổn thương do hậu quả của các biện pháp đóng của và hạn chế điều đi lại. Ở Mỹ Latinh, 42% lao động trong lĩnh vực dịch vụ xã hội và 62% lao động trong lĩnh vực thương mại và bán lẻ, nhà hàng và khách sạn là phi chính thức (IDB, 2020). Khoảng một nửa số lao động phi chính thức sống trong cảnh nghèo đói không được hưởng lợi từ các chương trình trợ giúp xã hội truyền thống và tỷ lệ này tăng lên 61,9% trong nhóm lao động phi chính thức dễ bị tổn thương về kinh tế. Do đó, khả năng tái nghèo do hậu quả của đại dịch là cao bất thường
Doanh nghiệp do phụ nữ và người thuộc nhóm dân thiểu số làm chủ
Có nhiều tài liệu chứng minh rằng phụ nữ và các doanh nhân thuộc nhóm dân thiểu số phải đối mặt với nhiều thách thức cụ thể. Bằng chứng quá khứ chỉ ra rằng cuộc khủng hoảng tài chính 2008-09 đã ảnh hưởng không tương xứng đến các doanh nghiệp của người da đen và phụ nữ làm chủ. 60% doanh nghiệp thuộc sở hữu của người da trắng tồn tại vào năm 2002 vẫn hoạt động trong năm 2011 so với 49% doanh nghiệp thuộc sở hữu của người da đen. Tương tự, tỷ trọng là 61% doanh nghiệp do nam làm chủ so với 55% doanh nghiệp do nữ làm chủ (Brookings, 2020).
Đại dịch COVID-19 một lần nữa tấn công các chủ doanh nghiệp thiểu số và phụ nữ một cách không cân xứng. Các lý do bao gồm các doanh nghiệp này có xu hướng tập trung vào các ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi đại dịch, có vùng đệm tài chính tương đối nhỏ và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính khác nhau bị hạn chế. Các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ trung bình nhỏ hơn và trẻ hơn so với các doanh nghiệp do nam giới làm chủ. Họ có nhiều khả năng là người tự tài trợ, hoặc được tài trợ bởi bạn bè và gia đình, và có ít tài sản tài chính hơn. Ngoài ra, phụ nữ có ít khả năng tiếp cận với nguồn tài chính bên ngoài hơn và trình độ kỹ năng tài chính thấp hơn so với nam giới. Doanh nhân nữ lại ít mối liên hệ chuyên môn hơn, bao gồm cả ban cố vấn hoặc cố vấn chuyên nghiệp để chia sẻ lời khuyên về cách quản lý rủi ro trong đại dịch.
Dữ liệu do Facebook, OECD và Ngân hàng Thế giới thu thập vào tháng 5 năm 2020 cho thấy các SME do nữ lãnh đạo có khả năng đóng cửa cao hơn 7% so với SME do nam lãnh đạo, với một số khác biệt trong khu vực. Trung bình của các khu vực trên thế giới cho thấy có ít nhất 6% chênh lệch giới tính về tỷ lệ đóng cửa doanh nghiệp.
Các nghiên cứu khác đã khẳng định tác động tiêu cực từ đại dịch cao hơn đối với các doanh nhân nữ. Ở Đức, nữ giới làm việc tự do có nguy cơ bị mất doanh thu cao hơn 35% so với nam giới (Graeber, Kritikos và Seebauer, 2020). Ở Canada, các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đã sa thải tỷ lệ công nhân của họ cao hơn một cách không cân xứng so với các doanh nghiệp do nam giới làm chủ. 62% trong số các doanh nghiệp này đã sa thải hơn 80% lao động của họ, so với mức trung bình 45% đối với doanh nghiệp nhỏ nói chung. Một báo cáo của Phòng Thương mại Hoa Kỳ cho thấy, ngay cả sau khi làn sóng dịch bệnh đầu tiên lắng xuống, các nữ doanh nhân Hoa Kỳ vẫn ít lạc quan hơn về sự phục hồi.
Theo dữ liệu từ Hoa Kỳ, các doanh nhân thiểu số cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Xem xét tác động của COVID-19 ở Hoa Kỳ và thấy rằng, số lượng chủ doanh nghiệp đang hoạt động giảm 22% từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2020, trong đó các doanh nghiệp người Mỹ gốc Phi đã giảm 41%, chủ doanh nghiệp gốc Latino giảm 32% và chủ doanh nghiệp châu Á giảm 26%. Một cuộc khảo sát các doanh nghiệp nhỏ của Phòng Thương mại Hoa Kỳ được thực hiện vào nửa đầu tháng 11 năm 2020 cho thấy 74% chủ sở hữu cho biết họ cần chính phủ hỗ trợ thêm để vượt qua đại dịch. Tỷ lệ đó đã tăng lên 81% đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu của người thiểu số. Kết quả từ một cuộc khảo sát của Cục Dự trữ Liên bang vào đầu năm 2021 cho thấy khoảng 54% doanh nghiệp thuộc sở hữu của người da trắng mô tả tình trạng tài chính của họ là “nghèo nàn”, tỷ lệ đó đã tăng lên 79% đối với các doanh nghiệp do người châu Á làm chủ, lên 77% đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu của người da đen và lên 66% đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu của người gốc Tây Ban Nha.
Tự doanh (self-employed)
Tự doanh chiếm từ 10% đến 13% dân số lao động ở hầu hết các nước OECD, với sự tăng trưởng đáng kể được quan sát thấy sau cuộc khủng hoảng tài chính (OECD, 2020). Dữ liệu khảo sát gần đây đã chứng minh rằng, ở Liên minh Châu Âu, phần lớn những người tự kinh doanh là tự kinh doanh một mình (tức là họ không có nhân viên), và khả năng họ thất nghiệp trong cuộc khủng hoảng COVID-19 cao hơn nhiều (13%) so với người tự doanh có thuê lao động (2,3%) (Theo Tổ chức Châu Âu về Cải thiện Điều kiện Sống và Làm việc, 2020).
Những người lao động tự do đã bị ảnh hưởng mạnh ngay từ đầu đại dịch và một năm sau đại dịch, họ tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, dữ liệu từ tháng 4 năm 2020 ở Úc cho thấy số giờ làm việc của những người tự kinh doanh đã giảm 32% kể từ khi bắt đầu đại dịch, so với mức giảm 9% số giờ làm việc trên toàn nền kinh tế. Vào tháng 4 năm 2020, Biddle et al. đã tiến hành một cuộc khảo sát trong số những người làm việc tự do ở Úc, và phát hiện ra rằng 80% trong số họ chịu tác động tiêu cực, với 50% cho rằng chịu tác động là đáng kể. Sự tác động lớn đến lao động tự do này tiếp tục diễn ra trong suốt mùa hè năm 2020. Một cuộc khảo sát ở Ấn Độ được công bố vào tháng 9 năm 2020 cho thấy 86% người tự kinh doanh đã bị ảnh hưởng tiêu cực trong đó 25% không còn thu nhập. Dữ liệu từ Vương quốc Anh cho thấy vào mùa hè năm 2020, số lao động tự do ít hơn 8% so với mùa hè năm trước; và vào tháng 11 năm 2020, một triệu lao động tự do đã bị đẩy vào cảnh nợ nần.
P.A.T (NASATI), theo An in-depth analysis of one year of SME and entrepreneurship policy responses to COVID-19, OECD 2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tac-dong-cua-covid-19-den-cac-cong-ty-khoi-nghiep-doanh-nghiep-phi-chinh-thuc-tu-doanh-nu-doanh-nghiep-va-doanh-nhan-thieu-so-4781.html)
BRAZIL XÁC NHẬN HAI CA ĐẦU TIÊN NHIỄM BIẾN THỂ DELTACRON
Cập nhật: ngày 16-03-2022
Biến thể lai được gọi là “Deltacron” là biến thể kết hợp giữa Delta và Omicron. (Ảnh: DPA) |
Đề cập đến hai địa phương ở phía Bắc đất nước, Bộ trưởng Y tế Brazil Marcelo Queiroga cho biết: “Dịch vụ giám sát bộ gen của chúng tôi đã xác định được hai trường hợp ở Brazil. Một ở Amapa, và một ở Para”.
Theo ông Queiroga, mặc dù số ca nhiễm COVID-19 mới ở Brazil đã giảm song các cơ quan y tế vẫn phải cảnh giác. Ông cũng đồng thời kêu gọi người dân cần tiêm chủng đầy đủ.
Biến thể lai được gọi là “Deltacron”, được cho là có nguồn gốc từ Pháp, là biến thể kết hợp giữa Delta và Omicron. Tuy nhiên, giới khoa học chưa rõ mức độ nghiêm trọng của biến thể lai này.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã “theo dõi và thảo luận” sau khi nghiên cứu kỹ về biến thể này. Hiện chưa có dữ liệu rõ ràng chứng tỏ Deltacron lây lan mạnh hơn các biến thể trước đó.
Theo WHO, Deltacron được phát hiện với số lượng nhỏ tại các nước châu Âu như Pháp, Đan Mạch, Đức và Hà Lan. Trong khi đó, tờ The New York Times đưa tin Mỹ mới đây cũng đã ghi nhận hai trường hợp nhiễm Deltacron.
Các nhà khoa học cho biết biến thể này “cực kỳ hiếm” và không phải là “biến thể đáng quan ngại” (VOC) theo phân loại của WHO./.
(Nguồn: Khánh Linh (Theo Xinhua, AP)
TĂNG NGUY CƠ MẮC CÁC BỆNH VỀ TIM MẠCH SAU NHIỄM COVID-19
Cập nhật: ngày 10-03-2022
Theo kết quả nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Nature Medicine, người từng nhiễm COVID-19 có nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch cao hơn đáng kể so với người không nhiễm bệnh.
Tác giả chính của nghiên cứu – Phó Giáo sư Ziyad Al-Aly tại Đại học Washington, St. Louis., Missouri kiêm Giám đốc nghiên cứu và phát triển Hệ thống chăm sóc sức khỏe cựu chiến binh St. Louis, cho biết nguy cơ mắc các vấn đề về tim mạch sau khi nhiễm COVID-19 là rõ ràng, bất kế tuổi tác, giới tính và các yếu tố dẫn đến nguy cơ tim mạch khác, bao gồm tình trạng béo phì, huyết áp cao, mắc bệnh tiểu đường và bệnh thận mãn tính. Hơn thế nữa, vấn đề này có thể gặp ở cả những người trước đó chưa từng mắc các bệnh về tim mạch, bao gồm người trước đó có tình trạng sức khỏe tốt và thanh niên.
Dựa trên cơ sở dữ liệu y tế do Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ quản lý, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích và lọc ra hơn 150.000 hồ sơ y tế của những người nhiễm COVID-19 trong quãng thời gian từ ngày 1/3/2020 đến ngày 15/1/2021 và sống sót sau 30 ngày đầu tiên kể từ khi được chẩn đoán nhiễm bệnh.
Thông tin này sau đó được đối chiếu với hai nhóm người không nhiễm COVID-19, bao gồm nhóm hơn 05 triệu bệnh nhân tim mạch không mắc COVID-19 trong quãng thời gian nêu trên và nhóm có quy mô tương tự vào năm 2017 khi đại dịch chưa bùng phát.
Kết quả cho thấy xuất hiện nguy cơ đáng kể về 20 vấn đề tim mạch đối với những người hồi phục sau COVID-19 trong vòng 01 năm kể từ khi nhiễm bệnh. Các biến chứng tim mạch liên quan đến nguy cơ nói trên bao gồm rối loạn nhịp tim, viêm tim, đông máu, đột quỵ bệnh động mạch vành, đau tim, suy tim hoặc thậm chí tử vong.
Các nhà nghiên cứu còn nhận thấy, so với 2 nhóm đối chứng, những người từng nhiễm COVID-19 có nguy cơ mắc bệnh mạch vành cao hơn 72%, đau tim cao hơn 63% và đột quỵ cao hơn 52%. Các nguy cơ trên cũng rõ ràng ở những người nhiễm COVID-19 thể nhẹ (vốn chiếm đa số trong nhóm bệnh nhân COVID-19) và gia tăng mức độ nghiêm trọng sau khi nhiễm COVID-19, từ không nhập viện, cho đến phải nhập viện và cần chăm sóc đặc biệt.
Thông qua những phát hiện nêu trên, nhóm nghiên cứu một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiêm vắc-xin COVID-19 như một cách để ngăn ngừa tổn thương tim, và khuyến nghị chiến lược chăm sóc y tế đối với các trường hợp nhiễm COVID-19 nên chú ý thêm về sức khỏe tim mạch cũng như các biến chứng khác hậu COVID-19 hay còn được biết đến là hội chứng COVID kéo dài.
N.M.H (NASATI), theo https://www.nature.com/articles/d41586-022-00403-0, 14/2/2022 và https://www.drugs.com/news/more-evidence-covid-infection-brings-long-term-heart-risks-103446.html, 10/2/2022
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/khoa-hoc-doi-song/tang-nguy-co-mac-cac-benh-ve-tim-mach-sau-nhiem-covid-19-4701.html)
KHẢ NĂNG LÂY NHIỄM GIA TĂNG THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA COVID
Cập nhật: ngày 02-03-2022
Omicron, biến thể của vi rút SARS-CoV-2, được Tổ chức Y tế Thế giới công bố lần đầu tiên vào ngày 26/11/2021, đã trở thành biến thể chiếm ưu thế ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Giờ đây, dựa vào một mô hình trí tuệ nhân tạo, nhóm nghiên cứu tại Đại học Michigan và Đại học Illinois do Guo-Wei Wei dẫn đầu, đã nhận thấy biến thể Omicron và các biến thể khác đang phát triển nhằm tăng khả năng lây nhiễm và né tránh kháng thể. Do đó, nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải có các loại vắc-xin và liệu pháp kháng thể mới. Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí ACS Infectious Diseases và Chemical Information and Modeling.
Hiểu được cách vi rút SARS-CoV-2 phát triển là cần thiết để dự báo khả năng tái nhiễm dù đã tiêm vắc xin và thiết kế vắc xin để chống lại đột biến cùng với các phương pháp điều trị kháng thể đơn dòng. Trong một nghiên cứu gần đây trên tạp chí ACS Infectious Diseases , Guo-Wei Wei và các cộng sự đã phân tích gần 1,5 triệu trình tự bộ gen của vi rút SARS-CoV-2 được lấy từ những người nhiễm COVID-19. Kết quả xác định được 683 đột biến duy nhất trong vùng liên kết thụ thể (RBD), vùng của protein cầu gai của vi rút SARS-CoV-2 gắn vào thụ thể ACE2 trên bề mặt tế bào của con người.
Sau đó, các tác giả đã sử dụng mô hình trí tuệ nhân tạo để dự đoán cách những đột biến này ảnh hưởng đến mức độ liên kết giữa RBD với ACE2 và 130 cấu trúc kháng thể, bao gồm một số kháng thể đơn dòng được sử dụng làm liệu pháp điều trị. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng các đột biến tăng cường khả năng lây nhiễm là động lực cho sự tiến hóa của vi rút, trong khi ở bộ phận dân cư có tỷ lệ tiêm chủng cao, các đột biến cho phép vi rút né tránh vắc xin để trở nên chiếm ưu thế. Các nhà nghiên cứu cũng dự đoán một số tổ hợp đột biến nhất định có khả năng lây nhiễm cao.
Trong một nghiên cứu khác đăng trên trên Tạp chí Chemical Information and Modeling, Wei và các cộng sự đã đi sâu vào khả năng lây nhiễm của biến thể omicron, khả năng lây nhiễm dù đã tiêm vắc xin và khả năng kháng kháng thể. Họ đã sử dụng mô hình trí tuệ nhân tạo để phân tích ảnh hưởng của số lượng đột biến cao bất thường của biến thể trên protein đột biến ảnh hưởng đến liên kết giữa RBD với ACE2 và kháng thể. Kết quả cho thấy omicron có thể lây nhiễm cao hơn 10 lần so với vi rút corona ban đầu và khả năng lây nhiễm cao hơn 2,8 lần biến thể delta. Ngoài ra, omicron còn né tránh các vắc xin hiện tại cao gấp 14 lần so với delta và được dự đoán sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của một số liệu pháp kháng thể đơn dòng. Nhiều dự đoán trong số đó đã được xác minh bằng các kết quả thí nghiệm mới, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển vắc-xin và kháng thể đơn dòng thế hệ mới không dễ bị ảnh hưởng bởi các đột biến vi rút.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/increased-infectivity-drives-covid-evolution-mutations-that-allow-the-virus-to-escape-vaccines-become-dominant/, 2/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/kha-nang-lay-nhiem-gia-tang-thuc-day-su-phat-trien-cua-covid-4716.html)
KẾT HỢP THUỐC KHÁNG VI-RÚT MỚI CÓ HIỆU QUẢ CAO CHỐNG LẠI SARS-COV-2
Cập nhật: ngày 22-02-2022
Theo một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Trường Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania và Trường Y thuộc Đại học Maryland. Họ đã xác định được sự kết hợp mạnh mẽ của thuốc kháng vi-rút để điều trị COVID-19. Kết hợp thuốc brequniar với remdesivir hoặc molnupiravir; cả hai đều được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận để sử dụng khẩn cấp- đã ức chế vi-rút SARS-CoV-2 trong tế bào hô hấp của người và ở chuột. Phát hiện được công bố trên tạp chí Nature, cho thấy rằng những loại thuốc này có tác dụng mạnh hơn khi được sử dụng kết hợp hơn là dùng riêng lẻ.
Giáo sư-Tiến sĩ Sara Cherry, người dẫn đầu nghiên cứu, cho biết: Mặc dù chưa được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng, sự kết hợp của những loại thuốc được xác định trong nghiên cứu có khả năng trở thành phương pháp điều trị COVID-19 rất hứa hẹn. Việc xác định kết hợp thuốc kháng vi-rút thực sự quan trọng, vì làm như vậy có thể làm tăng hiệu lực của thuốc chống lại vi-rút coronavirus, mà còn làm giảm nguy cơ kháng thuốc.
SARS-CoV-2, vi-rút gây ra COVID-19, đã dẫn đến hơn 5 triệu ca tử vong trên toàn thế giới. Nhóm nghiên cứu đã sàng lọc 18.000 loại thuốc nhằm tìm kiếm hoạt tính kháng vi-rút, sử dụng vi-rút gây nhiễm SARS-CoV-2 sống trong tế bào biểu mô đường hô hấp của con người, vì tế bào phổi là mục tiêu chính của vi-rút. Họ đã xác định được 122 loại thuốc; cho thấy hoạt tính kháng vi-rút và tính chọn lọc chống lại vi-rút coronavirus, bao gồm 16 chất tương tự nucleoside-loại thuốc kháng vi-rút lớn nhất được sử dụng trên lâm sàng. Trong số 16 loại thuốc thì có remdesivir, được tiêm vào tĩnh mạch và đã được FDA chấp thuận để điều trị COVID-19; và molnupiravir- là loại thuốc uống được cho phép sử dụng.
Trong số 122 loại thuốc, các nhà nghiên cứu đã xác định một nhóm chất ức chế sinh tổng hợp nucleoside của vật chủ, bao gồm cả loại thuốc thử nghiệm. Các chất ức chế sinh tổng hợp nucleoside hoạt động bằng cách ngăn chặn các enzyme của chính cơ thể tạo ra nucleoside, ngăn vi-rút có thể tác động đến cấu tạo RNA và sao chép. Brequinar hiện đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng như một phương pháp điều trị COVID-19 và là một phần của liệu pháp kết hợp tiềm năng đối với một số bệnh ung thư.
Tiến sĩ Sara Cherry và các cộng sự đã đưa ra giả thuyết rằng việc kết hợp brequinar với một chất tương tự nucleoside, chẳng hạn như remdesivir hoặc molnupiravir, có thể hoạt động “hợp lực” để tạo ra hiệu ứng mạnh hơn chống lại vi-rút. Sự tương tác hai chiều xảy ra khi tổng tác dụng của hai hay nhiều thuốc lớn hơn tổng tác dụng riêng lẻ của từng thuốc. Tiến sĩ Sara Cherry, cho biết: việc sử dụng những chất tương tự nucleoside này đồng thời làm giảm mức độ của các khối cấu tạo nucleoside của vật chủ có thể kết hợp với nhau để tiêu diệt siêu vi khuẩn. Điều thực sự đáng kinh ngạc là khi bạn kết hợp chúng với nhau, vi-rút đã chết hoàn toàn.
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm những loại thuốc này trong tế bào phổi cũng như trên chuột, và nhận thấy rằng những sự kết hợp này có hiệu quả cao chống lại nhiều chủng coronavirus, bao gồm cả biến thể Delta. Nhóm nghiên cứu hiện đang trong quá trình thử nghiệm các loại thuốc chống lại Omicron.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng Paxlovid – một loại thuốc kháng vi-rút đường uống cũng được FDA cho phép gần đây; có thể được kết hợp với remdesivir hoặc molnupiravir để có tác dụng “phụ gia” chống lại SARS-CoV-2. Bước tiếp theo là các kết hợp thuốc này sẽ được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng. Điều tra viên của nghiên cứu – Frieman cho biết: “Khi các chủng vi-rút mới xuất hiện, nhu cầu về các phương pháp điều trị mới sẽ vẫn rất quan trọng. Hiện chúng tôi biết rằng có một số sự kết hợp thuốc mạnh có khả năng trị vi-rút”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-02-antiviral-drug-combination-highly-effective.html, 7/2/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/ket-hop-thuoc-khang-vi-rut-moi-co-hieu-qua-cao-chong-lai-sars-cov-2-4680.html)
CÔNG BỐ PHÂN TÍCH QUỐC GIA MỚI VỀ GHÉP PHỔI COVID-19 TẠI HOA KỲ
Cập nhật: ngày 14-02-2022
Phân tích của Viện Tim Smidt về các ca ghép phổi được thực hiện trong phạm vi toàn quốc tại Hoa Kỳ chỉ ra rằng có sự hỗ trợ lớn cho những bệnh nhân bị tổn thương phổi nặng, không thể phục hồi do COVID-19.
Phân tích hơn 3.000 ca cấy ghép phổi ở Hoa Kỳ từ ngày 1 tháng 8 năm 2020 đến ngày 30 tháng 9 năm 2021 cho thấy, trong đại dịch, 7% ca cấy ghép phổi của quốc gia này được thực hiện để điều trị tình trạng tổn thương phổi nghiêm trọng, không thể phục hồi do COVID-19 gây ra. Hơn một nửa số bệnh nhân này cần dùng máy thở hoặc trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể (Extracorporeal membrane oxygenation (ECMO)) trước khi thực hiện cấy ghép.
“Kinh nghiệm điều trị COVID-19 của chúng tôi đã cho thấy rằng ECMO có thể sử dụng được cho những bệnh nhân chọn lọc cẩn thận để ghép phổi hoặc cho phép phổi của chính bệnh nhân lành lại. Vài năm trước, hầu hết những bệnh nhân COVID-19 nặng này sẽ bị coi là quá nghiêm trọng để có thể thực hiện cấy ghép. Những phát hiện đáng ngạc nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy là họ đã bình phục tốt ra sao sau khi được ghép phổi”, Tiến sỹ Joanna Chikwe, Chủ tịch sáng lập Khoa Phẫu thuật tim tại Viện tim Smidt, Trung tâm y tế Cedars-Sinai, Los Angeles, đồng thời là tác giả chính của dữ liệu được công bố trên Tạp chí Y học New England (NEJM), cho biết.
Khi sử dụng ECMO, máu của bệnh nhân được bơm ra khỏi cơ thể của họ, đưa qua phổi nhân tạo, sau đó được bơm trở lại cơ thể của bệnh nhân. Máy này – tương tự như máy bắc cầu tim – phổi – đã tồn tại được vài thập kỷ, tuy nhiên, việc sử dụng nó cho bệnh suy phổi mới tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua.
Trước đây, ECMO đã được các chuyên gia xem là một “Hail Mary pass” (nỗ lực cuối cùng nhưng không đạt được hiệu quả và gây thất bại, tuyệt vọng). Tuy nhiên, trong đại dịch toàn cầu, công nghệ này được sử dụng thường xuyên nên các bác sĩ ở Cedars-Sinai đã học được những cách áp dụng mới để có thể sử dụng máy hiệu quả và cứu sống bệnh nhân.
Dữ liệu công bố trên NEJM được thu thập từ Mạng lưới Chia sẻ Cơ quan nội tạng Hoa Kỳ (UNOS), tổ chức phi lợi nhuận chịu trách nhiệm quản lý hệ thống cấy ghép nội tạng của quốc gia. Kết quả từ 3.039 ca ghép phổi cho thấy:
• Tuổi trung bình của bệnh nhân COVID-19 ghép phổi là 52;
• 21% bệnh nhân COVID-19 ghép phổi là nữ;
• 36,6% bệnh nhân COVID-19 ghép phổi là người gốc Tây Ban Nha;
• Trong số 214 ca COVID-19 ghép phổi, tỷ lệ sống sót sau ba tháng là 95,6%;
• Trong số 214 ca COVID-19 ghép phổi, 140 bệnh nhân mắc hội chứng suy hô hấp cấp COVID-19, và 74 bệnh nhân COVID-19 bị xơ phổi.
Bác sỹ, Tiến sỹ Amy Roach, Chuyên khoa phẫu thuật tổng quát, nghiên cứu viên Nagel tại Khoa Phẫu thuật tim ở Smidt Heart cho biết: “Hội chứng suy hô hấp cấp tính liên quan đến tình trạng phổi bị viêm cấp tính, dẫn đến giảm khả năng oxy hóa và thông khí của phổi. Ở một số bệnh nhân, bệnh này tiến triển thành xơ phổi do COVID-19, gây sẹo ở phổi và nói chung là không thể phục hồi”.
Trong suốt đại dịch, các bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật của Viện Tim Smidt đã học được cách tốt nhất để điều trị cho bệnh nhân bằng phương pháp ECMO.
“Giờ chúng tôi biết rằng chúng tôi phải vận động bệnh nhân và giảm kê đơn thuốc an thần bất cứ khi nào có thể. Chúng tôi cũng biết được việc bệnh nhân có thể duy trì an toàn trên ECMO trong bao lâu”, Dominick Megna, Giám đốc Phẫu thuật của Chương trình Cấy ghép phổi – tác giả chính của nghiên cứu nói.
Từ tháng 7 năm 2020 đến ngày 30 tháng 6 năm 2021, Trung tâm y tế Cedars-Sinai đã cung cấp hơn 30.000 giờ chăm sóc ECMO cho bệnh nhân. Trong số 30.000 giờ đó, 21.000 giờ dành cho bệnh nhân bị bệnh phổi nặng do COVID-19.
Tiến sỹ Reinaldo Rampolla, Giám đốc y tế của Chương trình Cedars-Sinai – đồng tác giả nghiên cứu bày tỏ: “Phân tích của chúng tôi cho thấy cấy ghép phổi có thể là một lựa chọn an toàn cho một số bệnh nhân bị tổn thương phổi nghiêm trọng nhất mà không thể phục hồi do COVID-19. Tuy nhiên, hy vọng là không ai phải trải qua ECMO hoặc cấy ghép phổi vì COVID-19. Biện pháp bảo vệ tốt nhất mà chúng ta có để chống lại căn bệnh nguy hiểm, nghiêm trọng này là tiêm phòng”.
P.T.T (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-01-team-publishes-national-analysis-covid-.html, 27/1/2022
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/cong-bo-phan-tich-quoc-gia-moi-ve-ghep-phoi-covid-19-tai-hoa-ky-4665.html)
COVID-19 CÓ THỂ KÍCH HOẠT CÁC KHÁNG THỂ TỰ TẤN CÔNG, NGAY CẢ TRONG TRƯỜNG HỢP NHẸ HOẶC KHÔNG CÓ TRIỆU CHỨNG
Cập nhật: ngày 18-1-2022
Theo các chuyên gia thuộc Viện tim Cedars-Sinai Smidt ở Los Angeles, việc nhiễm vi-rút COVID-19 có thể kích hoạt phản ứng miễn dịch kéo dài vượt quá mức nhiễm trùng và phục hồi ban đầu; ngay cả ở những người có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng gì. Phát hiện được công bố trên Tạp chí Y học Dịch thuật.
Khi bị nhiễm vi-rút hoặc mầm bệnh khác, cơ thể sẽ giải phóng protein được gọi là kháng thể phát hiện những chất lạ và ngăn chúng xâm nhập vào tế bào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, con người tạo ra tự kháng thể có thể tấn công vào cơ quan và mô của chính cơ thể theo thời gian.
Các chuyên gia của Cedars-Sinai phát hiện ra rằng những người trước đó đã nhiễm SARS-CoV-2, loại vi-rút gây ra COVID-19, có kháng thể lên đến sáu tháng sau khi họ bình phục hoàn toàn. Trước nghiên cứu này, các nhà khoa học đã biết rằng các trường hợp nghiêm trọng của COVID-19 có thể gây căng thẳng cho hệ miễn dịch đến mức sản sinh ra tự kháng thể. Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên báo cáo không chỉ sự hiện diện của các tự kháng thể tăng cao sau khi nhiễm trùng nhẹ hoặc không có triệu chứng, mà còn là sự tồn tại của chúng theo thời gian.
Đồng tác giả nghiên cứu, Tiến sĩ Justyna Fert-Bober, nhà khoa học nghiên cứu tại Khoa Tim mạch tại Viện Tim Smidt, cho biết: “Những phát hiện này giúp giải thích điều gì khiến COVID-19 trở thành một căn bệnh đặc biệt. Những mô hình rối loạn điều hòa miễn dịch này có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại triệu chứng dai dẳng khác nhau mà chúng tôi thấy ở những người tiếp tục phát triển tình trạng này mà giờ đây được gọi là COVID-19 kéo dài”.
Nhóm nghiên cứu của Cedars-Sinai đã tìm 177 tình nguyện viên nhiễm SARS-CoV-2 trước đó. Họ so sánh mẫu máu của những người này với mẫu lấy từ những người khỏe mạnh trước đại dịch. Tất cả những người bị nhiễm SARS-CoV-2 được xác nhận đều có mức tự kháng thể tăng cao. Một số tự kháng thể cũng được tìm thấy ở những người mắc những bệnh mà hệ miễn dịch tấn công tế bào khỏe mạnh của chính nó, chẳng hạn như bệnh lupus và viêm khớp dạng thấp.
Tiến sĩ Susan Cheng – Giám đốc Viện Nghiên cứu Lão hóa cho biết: “Chúng tôi tìm thấy các tín hiệu về hoạt động tự kháng thể thường liên quan đến tình trạng viêm và tổn thương mãn tính liên quan đến các hệ thống cơ quan và mô cụ thể như khớp, da và hệ thần kinh”.
Một số tự kháng thể có liên quan đến các bệnh tự miễn dịch thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam giới. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, nam giới có số lượng tự kháng thể tăng cao hơn phụ nữ. Fert-Bober cho biết: “Một mặt, phát hiện này là nghịch lý khi các tình trạng tự miễn dịch thường phổ biến hơn ở nữ giới. Mặt khác, nó cũng có phần được mong đợi với tất cả những gì chúng ta biết về việc nam giới dễ bị tổn thương hơn bởi các dạng COVID-19 nghiêm trọng nhất”.
Các nhà khoa học quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu để tìm kiếm các loại tự kháng thể có thể tồn tại và tồn tại ở những người có các triệu chứng COVID-19 kéo dài. Bởi vì nghiên cứu này được thực hiện ở những người bị nhiễm bệnh trước khi vắc-xin ra đời, các nhà nghiên cứu cũng sẽ kiểm tra xem liệu các tự kháng thể có được tạo ra tương tự ở những người bị nhiễm trùng đột biến hay không.
Tiến sĩ Susan Cheng cho biết: “Nếu chúng ta có thể hiểu rõ hơn về các phản ứng tự kháng thể này và cách lây nhiễm SARS-CoV-2 gây ra và thúc đẩy các phản ứng thay đổi này, thì chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa để xác định các cách điều trị”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-12-covid-trigger-self-attacking-antibodies-mild.html, 30/12/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/covid-19-co-the-kich-hoat-cac-khang-the-tu-tan-cong-ngay-ca-trong-truong-hop-nhe-hoac-khong-co-trieu-chung-4604.html)
BƯỚC SANG NĂM THỨ 3, ĐẠI DỊCH COVID-19 DẪN ĐẾN MỘT SỐ THAY ĐỔI Ở HOA KỲ
Cập nhật: ngày 07-1-2022
Biến thể Omicron đang lan rộng nhanh chóng và đang tấn công các doanh nghiệp vào thời điểm nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm và dịch vụ tăng cao, và nhiều công ty đang phải vật lộn với những thách thức về nhân sự và chuỗi cung ứng.
Bước sang năm thứ ba của đại dịch COVID-19, Hoa Kỳ vẫn chứng kiến sự gia tăng biến thể, các doanh nghiệp bị suy giảm cũng như các chuyến bay và chuyến tàu bị hủy bỏ, trong khi đó đã nổi lên một số thay đổi bất ngờ. Tờ The New York Times (NYT) đưa tin hôm 3/1/2022: “Đại dịch đã mang đến những thay đổi địa chấn“. Bên cạnh những ca tử vong và nhập viện cao, thì cũng xuất hiện các các dạng thuốc mới đến các phương thức kinh doanh ít lãng phí hơn, nhiều người đã thích nghi với COVID-19.
Tờ The Wall Street Journal (WSJ) đưa tin hôm 3/1/2022: “Sự lây lan nhanh chóng của biến thể Omicron của COVID-19 đang đè nặng lên các doanh nghiệp Hoa Kỳ, khiến nhiều công nhân bị ốm hoặc cách ly và khiến một số công ty phải cắt giảm dịch vụ và giảm giờ làm việc”. Các công ty cho biết, sự gia tăng của nhiễm trùng COVID-19 ở Hoa Kỳ lên mức kỷ lục trong những ngày gần đây đã dẫn đến hàng nghìn chuyến bay bị hủy, buộc các nhà bán lẻ phải đào tạo nhân viên có sẵn về công việc mới hoặc đóng cửa hoàn toàn một số cửa hàng. Báo cáo cho biết: “Biến thể Omicron lan rộng nhanh chóng đang tấn công các doanh nghiệp vào thời điểm nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm và dịch vụ tăng cao, và nhiều công ty đang phải vật lộn với những thách thức về nhân sự và chuỗi cung ứng”.
Cuối tuần qua, các hãng hàng không đã hủy hàng nghìn chuyến bay, giới hạn một tuần trong đó các hãng hàng không hủy hơn 1.000 chuyến bay mỗi ngày, theo FlightAware theo dõi chuyến bay. Gần 1.500 chuyến bay đã bị hủy bỏ vào cuối ngày hôm 2/1/2022. Ngoài bão tuyết tấn công các sân bay ở Tây Bắc Thái Bình Dương, các hãng hàng không cho biết việc nhiễm COVID-19 gia tăng trong các thành viên phi hành đoàn đã cản trở các chuyến bay trong khi du lịch nghỉ lễ đã phục hồi từ mức năm 2020. Một trường hợp điển hình là JetBlue có trụ sở tại New York, đã cắt giảm lịch trình bay của mình đến giữa tháng 1 vì nhiều thành viên phi hành đoàn đã nhiễm virus.
Các nhà điều hành siêu thị cho biết họ dự đoán sự lan rộng của biến thể Omicron sẽ khiến nhân viên thu ngân, nhân viên dự trữ và các nhân viên khác vắng mặt ngày càng nhiều trong những ngày tới, làm sâu sắc thêm các vấn đề về nhân sự mà lĩnh vực tạp hóa đã phải đối mặt trong nhiều tháng.
Tình trạng nhiễm bệnh ngày càng gia tăng đã khiến một số nhà bán lẻ phải tạm thời đóng cửa các cửa hàng, chẳng hạn như Apple Inc. Apple đã đóng cửa tất cả các cửa hàng của mình đối với người mua sắm trực tiếp ở Thành phố New York vào ngày 27 tháng 12 năm 2021.
Theo Hiệp hội các nhà xuất bản Hoa Kỳ, doanh số bán sách đã tăng trong năm đầu tiên đại dịch bùng phát. Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2021, doanh số bán sách đã tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, theo Hiệp hội các nhà xuất bản Hoa Kỳ. Tương ứng với sự lựa chọn ngày càng tăng của công chúng, ít nhất 172 hiệu sách độc lập mới đã được mở vào năm 2021, Hiệp hội những người bán sách Hoa Kỳ cho biết. Trong khi đó, đối với một số người khuyết tật, sự thay đổi văn hóa mà đại dịch buộc phải làm, như công việc linh hoạt và từ xa mà họ ủng hộ từ lâu, đã cải thiện cuộc sống của họ. Theo Tổ chức phi lợi nhuận Kessler, tổ chức theo dõi dữ liệu liên quan đến người khuyết tật, tỷ lệ việc làm của người khuyết tật hiện đang ở mức cao nhất mọi thời đại, mặc dù vẫn thấp hơn rất nhiều so với người không khuyết tật.
P.A.T (NASATI), theo Xinhua, 3/1/2022
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/buoc-sang-nam-thu-3-dai-dich-covid-19-dan-den-mot-so-thay-doi-o-hoa-ky-4577.html)
CÁCH NHẬN BIẾT CÁC TRIỆU CHỨNG COVID-19
TỪ BIẾN THỂ OMICRON
Cập nhật: ngày 05-1-2022
Một trường hợp Covid-19 nhẹ do biến thể omicron có thể cảm thấy giống như bị cảm lạnh. Danh sách các triệu chứng của Covid-19 ngày càng dài và lạ trong suốt đại dịch. Với rất nhiều người hiện nay đã được chủng ngừa, các dấu hiệu cảnh báo nhiễm trùng ngày càng tinh vi và mơ hồ hơn. Điều đó càng trở nên rõ ràng khi biến thể omicron bùng phát trên khắp thế giới.
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã theo dõi các dấu hiệu lây nhiễm với Nghiên cứu triệu chứng Covid bằng ứng dụng di động nơi người dùng có thể tự báo cáo các triệu chứng của họ. Dữ liệu về biến thể omicron vẫn còn sơ bộ, nhưng một nhóm 171 người dùng ứng dụng ở Vương quốc Anh, hầu hết đều được tiêm chủng, gần đây đã báo cáo rằng các triệu chứng hàng đầu của họ đối với omicron là chảy nước mũi, nhức đầu, mệt mỏi, hắt hơi và đau họng. Đây cũng là những triệu chứng hàng đầu đối với những người bị nhiễm biến thể delta. Các nhà nghiên cứu cho biết, đó là sự khác biệt so với “ba triệu chứng cổ điển” của Covid-19 là sốt, ho và mất khứu giác hoặc vị giác liên quan đến các biến thể trước đó. “Đối với hầu hết mọi người, một trường hợp dương tính với omicron sẽ cảm thấy giống như cảm lạnh thông thường, bắt đầu với đau họng, chảy nước mũi và đau đầu”, Tim Spector, giáo sư dịch tễ học tại Đại học King’s College London nói.
Trong số 171 người trong cuộc phân tích dữ liệu triệu chứng gần đây, những người bị Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh nghi ngờ hoặc xác nhận là bị nhiễm omicron, nhóm nghiên cứu triệu chứng chỉ tìm thấy một nửa số người bị sốt, ho, mất vị giác hoặc mất khứu giác.
Các nhà nghiên cứu ở Na Uy gần đây đã báo cáo những phát hiện tương tự từ một đợt bùng phát omicron giữa những vị khách đã được tiêm phòng đầy đủ của một bữa tiệc Giáng sinh. Trong 87 trường hợp được xác nhận, các triệu chứng phổ biến nhất là ho, sổ mũi hoặc nghẹt mũi, mệt mỏi, đau họng và đau đầu. Chỉ hơn một nửa báo cáo bị sốt, trong khi 23% bị mất vị giác và 12 người bị suy giảm khứu giác.
Những trường hợp này là bằng chứng thêm cho thấy biến thể omicron là phiên bản dễ lây truyền nhất của vi rút cho đến nay, và nó dường như có khả năng né tránh khả năng miễn dịch trước đó tốt hơn. Tuy nhiên, ở Mỹ, vắc-xin vẫn mang lại hiệu quả bảo vệ mạnh mẽ đối với bệnh nặng, đặc biệt là với một mũi tiêm nhắc lại.
Giám đốc CDC Rochelle Walensky cho biết trong cuộc họp báo tại Nhà Trắng tuần này: “Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi nhiều hơn về những người bị nhiễm bệnh đã được tiêm chủng. Những người này có thể bị nhiễm trùng nhẹ hoặc không có triệu chứng và có thể vô tình lây những bệnh nhiễm trùng đó cho người khác”.
Ở Nam Phi, một trong những nơi đầu tiên phát hiện ra biến thể omicron, việc tiêm chủng rộng rãi chống lại căn bệnh này kết hợp với một số miễn dịch từ nhiễm trùng trước đó có thể giải thích tại sao omicron dường như xuất hiện với các triệu chứng nhẹ hơn.
“Có thể không nhất thiết chỉ là omicron ít độc lực hơn, nhưng chúng tôi tin rằng phạm vi tiêm chủng này, ngoài khả năng miễn dịch tự nhiên của những người đã tiếp xúc với vi rút, cũng tăng thêm khả năng bảo vệ”, Bộ trưởng Bộ Y tế Nam Phi Joe Phaahla nói với các phóng viên vào tuần trước. “Đó là lý do tại sao chúng tôi thấy bệnh nhẹ“.
Tại Hoa Kỳ, 73% dân số đã tiêm ít nhất một liều vắc-xin Covid-19 và hơn 50 triệu người đã bị nhiễm bệnh trước đó, vì vậy một phần đáng kể dân số đã được bảo vệ chống lại căn bệnh này ở một mức độ nào đó.
Mặc dù vậy, một số người nhiễm omicron sẽ bị ốm nặng. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, các triệu chứng Covid-19 cần được chăm sóc y tế khẩn cấp bao gồm nhầm lẫn đột ngột; không có khả năng tỉnh táo; đau ngực dai dẳng hoặc áp lực; khó thở; và môi, móng tay móng chân, và da chuyển sang màu xanh lam, tái nhợt hoặc xám.
Ngoài ra, các bệnh nặng thường bắt đầu với các triệu chứng nhẹ, và nhiều phương pháp điều trị bằng Covid-19 hiệu quả nhất trong giai đoạn đầu của bệnh. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm gần đây đã cấp phép khẩn cấp cho thuốc Paxlovid từ Pfizer, loại thuốc kháng vi-rút đường uống đầu tiên được cơ quan này bật đèn xanh. Nó được khuyến nghị cho các trường hợp Covid-19 “nhẹ đến trung bình” ở những người có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh nặng.
Sự xuất hiện của các triệu chứng giống như cảm lạnh với biến thể omicron có nghĩa là việc đi xét nghiệm để xác nhận xem ai đó có bị nhiễm Covid-19 hay không là điều quan trọng hơn bao giờ hết để làm chậm sự lây lan của vi rút. Đối với những người có tình trạng sức khỏe kém, việc xác định sớm các bệnh nhiễm trùng là chìa khóa để triển khai các phương pháp điều trị hiệu quả kịp thời.
P.A.T (NASATI), theo https://www.vox.com/, 24/12/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/cach-nhan-biet-cac-trieu-chung-covid-19-tu-bien-the-omicron-4568.html)
MODERNA CHO BIẾT VẮC XIN COVID-19 LIỀU TĂNG CƯỜNG CỦA HỌ HIỆU QUẢ CHỐNG LẠI OMICRON
Cập nhật: ngày 22-12-2021
Ngày 20/12/2021, Công ty công nghệ sinh học Mỹ Moderna thông báo rằng liều tăng cường 50 microgram hiện được ủy quyền của vắc xin COVID-19 mRNA-1273 của Moderna đã tăng mức kháng thể trung hòa chống lại Omicron khoảng 37 lần so với mức trước khi được tiêm tăng cường và liều tăng cường 100 microgram đã tăng mức kháng thể trung hòa lên khoảng 83 lần.
Moderna đã công bố dữ liệu sơ bộ cho thấy việc tiêm tăng cường COVID-19 của họ làm tăng mức độ kháng thể chống lại biến thể Omicron coronavirus. Theo công ty, một liều tăng cường 100 microgram “nói chung là an toàn và được dung nạp tốt“. Nhưng có một xu hướng đối với các phản ứng có hại thường xuyên hơn một chút sau khi sử dụng liều tăng cường 100 microgram so với liều tăng cường 50 microgram.
Stephane Bancel, Giám đốc điều hành của Moderna cho biết, để đáp ứng với biến thể Omicron có khả năng truyền nhiễm cao, Moderna sẽ tiếp tục nhanh chóng đưa ứng viên vắc xin tăng cường Omicron cụ thể vào thử nghiệm lâm sàng trong trường hợp cần thiết trong tương lai.
Biến thể Omicron, có thể dễ lây lan hơn biến thể Delta, đã được phát hiện ở ít nhất 47 bang của Mỹ tính đến 19/12/2021, kể từ khi trường hợp đầu tiên ở quốc gia này được phát hiện ở California vào ngày 1/12/2021.
P.A.T (NASATI), theo http://www.news.cn/english/2021-12/21/c_1310384702.htm, 20/12/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/moderna-cho-biet-vac-xin-covid-19-lieu-tang-cuong-cua-ho-hieu-qua-chong-lai-omicron-4545.html)
HỢP TÁC QUỐC TẾ: DẤU HIỆU PHẢN ỨNG CỦA KHAO HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19
Cập nhật: ngày 14/12/2021
Hợp tác là trọng tâm của phản ứng khoa học và công nghệ đối với COVID-19, nơi các nền tảng hợp tác quốc gia và quốc tế về công nghệ đang cách mạng hóa việc thiết kế và sản xuất vắc xin. Các nhà hoạch định chính sách nên tận dụng động lực từ phản ứng của cộng đồng quốc tế đối với COVID-19 để tập trung lại hợp tác khoa học và công nghệ quốc tế vào các vấn đề hàng hóa công toàn cầu (GPG) thông qua nghiên cứu xuyên ngành lớn hơn, các cơ chế tài trợ công-tư mới và đổi mới hợp tác mạnh mẽ hơn các mô hình.
Hợp tác khoa học quốc tế về COVID-19 thông qua việc trao đổi dữ liệu và vật liệu di truyền và virus, ban đầu từ Trung Quốc đến các trung tâm nghiên cứu khác trên thế giới, đánh dấu một sự phát triển tương đối nhanh so với các đại dịch trước đây. Chưa đầy 24 giờ sau khi các phòng thí nghiệm y tế công Trung Quốc giải trình tự coronavirus đầu tiên đến dữ liệu bộ gen đầy đủ được chia sẻ công khai trên cơ sở dữ liệu EpiCoV ™ của Sáng kiến Toàn cầu về Chia sẻ Dữ liệu Cúm Gia cầm (GISAID), một hình thức hợp tác công tư. Kể từ đó, nhiều nền tảng chia sẻ dữ liệu mở quốc tế đã mọc lên để cung cấp quyền truy cập vào dữ liệu dịch tễ học, lâm sàng và gen, cũng như các nghiên cứu liên quan. Các giao thức và tiêu chuẩn được sử dụng để thu thập dữ liệu cũng đang được chia sẻ cùng với các công cụ phân tích. Tập dữ liệu nghiên cứu mở COVID-19 (CORD-19), do Viện Allen về AI phối hợp với chính phủ Hoa Kỳ và một số công ty, tổ chức và nhà xuất bản tạo ra, chứa hơn 280 000 bài báo học thuật toàn văn có thể đọc được trên máy về COVID-19 và các coronavirus liên quan, đồng thời là cơ sở để áp dụng các kỹ thuật máy học nhằm tạo ra những hiểu biết mới hỗ trợ nghiên cứu COVID-19. Các sáng kiến khác bao gồm kho lưu trữ dữ liệu bộ gen (chẳng hạn như Nextstrain và GISAID), dữ liệu cấu trúc hóa học (ví dụ: tập dữ liệu các hợp chất ứng cử viên kháng vi-rút CAS COVID-19), nghiên cứu lâm sàng (ví dụ: ClinicalTrials.org cho các nghiên cứu liên quan đến COVID-19) và dữ liệu để mô hình hóa nghiên cứu (ví dụ: MIDAS). Ủy ban Châu Âu đã ra mắt Cổng dữ liệu COVID-19 vào tháng 4/2020 để tập hợp các bộ dữ liệu liên quan để chia sẻ và phân tích trong nỗ lực đẩy nhanh nghiên cứu về coronavirus. Nó cho phép các nhà nghiên cứu tải lên, truy cập và phân tích dữ liệu tham chiếu liên quan đến COVID-19 và bộ dữ liệu chuyên gia như một phần của Nền tảng dữ liệu COVID-19 của Châu Âu rộng lớn hơn. Hầu hết các nhà xuất bản tạp chí khoa học đã miễn chi phí truy cập truyền thống liên quan đến các bài báo khoa học về COVID-19.
Công bố khoa học về COVID-19 tiếp tục gia tăng ấn tượng. Phân tích dữ liệu PubMed của OECD cho thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai nước đóng góp lớn nhất cho các công bố về COVID-19 và cũng là đối tác hợp tác chính của nhau. Nghiên cứu khác xác nhận những mô hình này, ví dụ, một phân tích của tất cả các bài báo khoa học về coronavirus được xuất bản từ ngày 1/1/2018 đến ngày 8/4/2020 cho thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc đã tăng cường hợp tác sau khi bùng phát COVID-19.
Hợp tác nghiên cứu lâm sàng và thử nghiệm lâm sàng về COVID-19 cũng đã phát triển đáng kể. Hàng trăm thử nghiệm lâm sàng đã được đăng ký kể từ đầu năm 2020, hầu hết trong số đó để kiểm tra các thuốc đề xuất, và một số vắc xin. Hoa Kỳ chiếm số lượng lớn nhất các thử nghiệm lâm sàng cho đến nay, đặc biệt là đối với thuốc. Trung Quốc đứng thứ hai về thử nghiệm vắc xin. Dựa trên dữ liệu từ BioMedTracker và Pharmaprojects, hai nền tảng trực tuyến theo dõi quá trình phát triển thuốc, Bryan, Lemus và Marshall nhận thấy rằng 40% liệu pháp điều trị bằng thuốc đối với COVID-19 đang được phát triển bởi các nhóm công ty (cao hơn đáng kể so với 21% đối với các liệu pháp điều trị vi rút cúm H1N1, 9% đối với Ebola và 11% đối với Zika). Họ cũng nhận thấy rằng khoảng 1/3 số hợp tác này là mới.
P.A.T (NASATI), theo Science, Technology and Innovation Outlook 2021: Times of Crisis and Opportunity, OECD
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/hop-tac-quoc-te-dau-hieu-phan-ung-cua-khao-hoc-va-cong-nghe-doi-voi-dai-dich-covid-19-4474.html)
CHIẾN LƯỢC TIÊM CHỦNG MỚI CÓ THỂ NGĂN CHẶN SỰ BÙNG PHÁT CỦA VI RÚT CORONA
TRONG TƯƠNG LAI
Cập nhật: ngày 14-10-2021
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã phát triển chiến lược tiêm chủng ở chuột nhằm thúc đẩy sản sinh các kháng thể, có thể vô hiệu hóa không chỉ SARS-CoV-2 mà rất nhiều loại vi rút corona khác. Nếu được chuyển sang áp dụng thành công cho người, phương pháp này sẽ dẫn đến sự phát triển của một loại vắc xin thế hệ mới, có khả năng ngăn chặn đại dịch vi rút corona trong tương lai. Nghiên cứu đã được công bố vào ngày 8/10/2021 trên tạp chí Experimental Medicine.
Vi rút SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19, xâm nhập vào tế bào của người thông qua sử dụng protein cầu gai của nó để liên kết với thụ thể trên bề mặt tế bào được gọi là ACE2. Khu vực liên kết thụ thể của protein đột biến bao gồm hai phần: vùng “lõi” ở tất cả các vi rút corona, đều rất giống nhau và vùng “đầu” chuyên biệt hơn làm trung gian liên kết với ACE2.
Các kháng thể nhận biết vùng đầu của khu vực liên kết thụ thể tăng đột biến, có thể ngăn chặn sự xâm nhập của SARS-CoV-2 vào tế bào, nhưng ít bảo vệ chống lại các vi rút corona khác, như vi rút SARS-CoV-1 gây ra đợt bùng phát hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng vào năm 2002. Ngược lại, các kháng thể nhận ra vùng lõi của khu vực liên kết thụ thể tăng đột biến, có khả năng ngăn chặn sự xâm nhập của các vi rút corona khác nhau vào tế bào người. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với protein cầu gai của vi rút có xu hướng khiến cơ thể tạo ra nhiều kháng thể chống lại vùng đầu nhưng rất ít, nếu có, các kháng thể nhận ra vùng lõi.
“Điều này cho thấy, mặc dù có thể tạo ra các kháng thể vô hiệu hóa trên diện rộng, nhưng tình trạng nhiễm SARS-CoV-2 và các vắc xin hiện tại không có khả năng bảo vệ chống lại sự xuất hiện của các loại vi rút mới liên quan đến SARS”, GS. Tomohiro Kurosaki tại Trung tâm Nghiên cứu Biên giới Miễn dịch WPI thuộc Đại học Osaka Nhật Bản nói. “Do dịch bệnh vi rút corona trước đây như SARS-CoV-1 và MERS-CoV đã xảy ra, xuất phát từ việc vi rút corona lây truyền từ động vật vượt qua hàng rào loài, nên khả năng xuất hiện của các loại vi rút tương tự trong tương lai gây đe dọa lớn đến sức khỏe cộng đồng toàn cầu, ngay cả khi có các loại vắc xin hiệu quả để chống lại các loại vi rút hiện nay”.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm một chiến lược tiêm chủng mới, cho phép hệ miễn dịch tạo ra các kháng thể trung hòa trên diện rộng. Các nhà nghiên cứu đã biến đổi gen khu vực liên kết thụ thể của protein đột biến SARS-CoV-2, bao phủ vùng đầu của protein bằng các phân tử đường bổ sung. Các phân tử đường này có thể che chắn vùng đầu khỏi hệ miễn dịch và thúc đẩy sản sinh kháng thể chống lại vùng lõi không được che chắn của vùng liên kết thụ thể.
Những con chuột được miễn dịch với các protein được biến đổi di truyền này, tạo ra tỷ lệ kháng thể nhận biết vùng lõi của khu vực liên kết thụ thể protein đột biến cao hơn nhiều. Các kháng thể đó có thể vô hiệu hóa sự xâm nhập tế bào của không chỉ SARS-CoV-2 mà còn SARS-CoV-1 và ba vi rút corona giống SARS từ dơi và tê tê.
Kurosaki cho biết sẽ cần nghiên cứu chuyên sâu mới chuyển sang áp dụng chiến lược này trên người, nhưng “dữ liệu của chúng tôi cho thấy các phiên bản được thiết kế của khu vực liên kết thụ thể tăng đột biến có thể là một thành phần hữu ích cho việc phát triển các vắc xin thế hệ tiếp mới, có khả năng bảo vệ rộng hơn để ngăn chặn đại dịch vi rút corona trong tương lai”.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/new-vaccination-strategy-developed-that-could-prevent-future-coronavirus-outbreaks/, 8/10/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/chien-luoc-tiem-chung-moi-co-the-ngan-chan-su-bung-phat-cua-vi-rut-corona-trong-tuong-lai-4104.html)
FDA khuyến nghị tiêm thêm mũi vắc-xin COVID-19 tăng cường cho người Mỹ từ 65 tuổi trở lên
Cập nhật: ngày 24-9-2021
Hội đồng cố vấn của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã khuyến nghị tiêm thêm mũi vắc-xin COVID-19 tăng cường cho người Mỹ từ 65 tuổi trở lên và những người có nguy cơ mắc bệnh nặng cao, sau khi bác bỏ hoàn toàn lời kêu gọi phê duyệt tiêm thêm mũi vắc-xin COVID-19 tăng cường cho các nhóm tuổi khác.
Người phát ngôn Nhà Trắng Kevin Munoz cho biết: “Đây là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ người Mỹ khỏi COVID-19 tốt hơn. Chúng tôi sẵn sàng cung cấp các mũi tiêm tăng cường cho những người Mỹ đủ điều kiện”. FDA dự kiến sẽ sớm đưa ra quyết định về việc tiêm ngừa mũi thứ 3, mặc dù không bị ràng buộc bởi khuyến nghị của Hội đồng, nhưng sẽ xem xét nó.
Tiến sĩ Paul Offit, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Pennsylvania và là thành viên của Hội đồng, cho biết khuyến nghị này là khác so với khuyến nghị của chính quyền Biden về việc sử dụng tiêm ngừa mũi thứ 3 trên diện rộng. Bằng cách bỏ phiếu, các thành viên của Ủy ban tư vấn về vắc xin và các sản phẩm sinh học có liên quan của FDA đã từ chối đề xuất liều thứ ba của vắc xin Pfizer (PFE.N)/BioNTech cho bất kỳ ai từ 16 tuổi trở lên đã tiêm mũi thứ hai ít nhất sáu tháng trước đó. Họ cho rằng bằng chứng hỗ trợ sự chấp thuận rộng rãi là không đầy đủ và họ muốn xem thêm dữ liệu an toàn, đặc biệt là liên quan đến nguy cơ viêm tim ở những người trẻ tuổi sau khi tiêm chủng.
Các thành viên hội đồng sau đó đã nhất trí thông qua khuyến nghị tiêm mũi thứ ba cho những người Mỹ lớn tuổi và có nguy cơ cao khác, bởi bằng chứng cho thấy họ có nguy cơ mắc COVID-19 nghiêm trọng cao hơn và có nhiều khả năng bị suy giảm khả năng miễn dịch sau những mũi tiêm đầu tiên. Các cố vấn của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) dự kiến sẽ thảo luận về các khuyến nghị và xem những ai sẽ đủ điều kiện để tiêm.
Nhà sản xuất Pfizer vẫn đang thu thập nhiều dữ liệu hơn để hỗ trợ việc cấp phép hoặc phê duyệt rộng rãi hơn. Họ cho biết sẽ làm việc với FDA để trả lời các câu hỏi liên quan vì họ tin tưởng vào lợi ích của liều tăng cường đối với một lượng lớn dân số. Cổ phiếu Pfizer đóng cửa giảm 1,3%, trong khi cổ phiếu giao dịch tại Hoa Kỳ của BioNTech kết thúc ngày giảm 3,6%.
Một số quốc gia, bao gồm cả Israel và Anh, đã bắt đầu các chiến dịch tiêm tăng cường COVID-19 mũi thứ 3. Hoa Kỳ đã cho phép tiêm bổ sung cho những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương vào tháng trước và khoảng 2 triệu người đã được tiêm mũi thứ ba, theo CDC.
Tổng thống Joe Biden đã thúc đẩy việc tiêm các mũi tiêm bổ sung khi đối mặt với gia tăng số ca nhập viện và tử vong do biến thể Delta rất dễ lây lan, hầu hết là trong số những người Mỹ chưa được tiêm chủng và đang gia tăng các ca nhiễm trùng đột phá ở những người Mỹ đã được tiêm chủng đầy đủ. Các cuộc thăm dò gần đây đã chỉ ra rằng hầu hết những người Mỹ đã tiêm phòng đều muốn được tiêm nhắc lại để tăng cường khả năng miễn dịch.
“Theo ý kiến của tôi, nó có thể có lợi cho người cao tuổi và cuối cùng có thể được chỉ định cho người dân nói chung. Tôi chỉ nghĩ rằng chúng ta chưa có dữ liệu”, Tiến sĩ Ofer Levy, chuyên gia về vắc xin và bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Nhi Boston cho biết. Hội đồng đã bỏ phiếu với tỷ lệ 16/2 chống lại việc tiêm tăng cường vắc-xin cho người Mỹ từ 16 tuổi trở lên, trước khi nhất trí đưa ra kế hoạch thay thế để tiêm tăng cường cho người Mỹ lớn tuổi và những người có nguy cơ cao mắc bệnh nặng nếu họ nhiễm vi-rút, bao gồm những người mắc bệnh tiểu đường, bệnh tim, béo phì và các bệnh đi kèm khác.
P.A.T (NASATI), theo https://www.reuters.com, 18/9/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/fda-khuyen-nghi-tiem-them-mui-vac-xin-covid-19-tang-cuong-cho-nguoi-my-tu-65-tuoi-tro-len-4032.html)
Bốn yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm COVID ở những người đã tiêm chủng
Cập nhật: ngày 20-9-2021
Hai tuần sau khi tiêm liều vắc xin COVID-19 thứ hai, tác dụng bảo vệ sẽ đạt mức cao nhất. Tuy nhiên, sau khi đã được tiêm chủng, bạn vẫn có thể bị nhiễm COVID-19, tương tự như tình trạng nhiễm COVID-19 thông thường ở những người chưa được chích ngừa, nhưng vẫn có một số khác biệt. Dưới đây là những điểm cần lưu ý khi bạn đã tiêm đủ hai liều vắc xin.
Theo Nghiên cứu về triệu chứng COVID, năm triệu chứng phổ biến nhất ở những người đã tiêm chủng mà vẫn bị nhiễm COVID, là nhức đầu, chảy nước mũi, hắt hơi, đau họng và mất khứu giác. Một số triệu chứng trong số này giống với triệu chứng ở những người chưa tiêm vắc xin bị nhiễm COVID. Nếu bạn chưa tiêm phòng, ba trong số các triệu chứng phổ biến nhất, cũng là đau đầu, đau họng và chảy nước mũi.
Hình minh họa
(Nguồn: https://luatvietnam.vn/bao-hiem/tin-vui-tu-ngay-1-7-2019-cho-nhung-ai-tham-gia-bhyt-563-20032-article.html)
Tuy nhiên, hai triệu chứng khác phổ biến ở những người chưa được tiêm chủng là sốt và ho dai dẳng. Hai triệu chứng COVID-19 “cổ điển” này ít phổ biến hơn nhiều, khi bạn đã tiêm được tiêm chủng đầy đủ. Một nghiên cứu đã phát hiện ra nguy cơ sốt ở những người đã tiêm chủng thấp hơn 58% so với những người chưa tiêm. Thay vào đó, cảm giác mà nhiều người đã tiêm chủng bị nhiễm COVID-19, là lạnh đầu.
Những người được tiêm chủng cũng ít có khả năng phải nhập viện hơn những người không được tiêm chủng nếu họ mắc COVID-19. Ngoài ra, trong giai đoạn đầu nhiễm bệnh, họ có ít triệu chứng hơn và tình trạng nhiễm bệnh ít khả năng kéo dài.
Điều gì làm tăng rủi ro?
Tại Anh, nghiên cứu đã chỉ ra rằng 0,2% dân số (hay 1 trong số 500 người) bị nhiễm COVID, dù đã được tiêm chủng đầy đủ. Nhưng không phải ai cũng có nguy cơ mắc bệnh như nhau. Bốn yếu tố được xem là góp phần vào mức độ bạn được bảo vệ nhờ tiêm chủng.
1. Loại vắc xin
Đầu tiên là loại vắc xin bạn được tiêm và khả năng giảm rủi ro tương đối mà mỗi loại vắc xin mang lại. Giảm nguy cơ tương đối là thước đo mức độ một loại vắc xin làm giảm nguy cơ mắc COVID-19 của một người nào đó so với những người không tiêm.
Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy vắc xin Moderna làm giảm 94% nguy cơ nhiễm COVID-19 có triệu chứng của một người, trong khi vắc xin Pfizer làm giảm 95% nguy cơ này. Vắc xin Johnson & Johnson và AstraZeneca hoạt động kém hơn, giảm nguy cơ này lần lượt khoảng 66% và 70% (dù khả năng bảo vệ của vắc xin AstraZeneca dường như tăng lên 81%, nếu khoảng cách giữa hai liều dài hơn).
2. Thời gian kể từ khi tiêm chủng
Những con số này không vẽ nên bức tranh hoàn chỉnh. Khoảng thời gian kể từ khi tiêm chủng, cũng rất quan trọng và là một trong những lý do tại sao tranh luận về việc tiêm mũi tăng cường ngày càng trở nên gay gắt.
Nghiên cứu bước đầu vẫn ở dạng bản in trước (và chưa được các nhà khoa học khác bình duyệt), cho thấy rằng khả năng bảo vệ của vắc xin Pfizer sẽ giảm dần trong sáu tháng sau khi tiêm. Một nghiên cứu dạng bản in trước của Israel cũng đề cập đến nội dung này. Còn quá sớm để xác định hiệu quả của vắc xin sau sáu tháng chủng ngừa đầy đủ nhưng hiệu quả có khả năng sẽ giảm hơn nữa.
3. Các biến thể
Một yếu tố quan trọng khác là biến thể của vi rút mà bạn đang phải đối mặt. Việc giảm thiểu rủi ro ở trên được tính toán, phần lớn thông qua thử nghiệm vắc xin chống lại dạng biến thể ban đầu của vi rút corona.
Nhưng khi đối mặt với biến thể alpha, dữ liệu từ Viện Sức khỏe Cộng đồng của Anh cho thấy, hai liều vắc xin Pfizer có khả năng bảo vệ thấp hơn một chút, giảm 93% nguy cơ mắc các triệu chứng COVID-19. Về khả năng chống biến thể Delta, mức độ bảo vệ giảm còn 88%. Vắc xin AstraZeneca cũng bị ảnh hưởng theo cách này.
Nghiên cứu về triệu chứng COVID ủng hộ tất cả những kết luận này. Theo dữ liệu nghiên cứu, hai đến bốn tuần sau khi tiêm vắc xin Pfizer liều thứ hai, bạn có ít khả năng mắc các triệu chứng COVID-19 hơn khoảng 87% khi đối mặt với biến chủng delta. Sau 4-5 tháng, con số đó giảm còn 77%.
4. Hệ miễn dịch của bạn
Các số liệu trên đề cập đến mức giảm rủi ro nhiễm COVID tính trung bình trên toàn bộ dân số. Vì thế, nguy cơ nhiễm COVID của mỗi người sẽ phụ thuộc vào khả năng miễn dịch của người đó và các yếu tố khác (như mức độ tiếp xúc với vi rút).
Khả năng miễn dịch thường giảm theo tuổi tác. Bệnh tật kéo dài cũng có thể làm giảm phản ứng của chúng ta với việc tiêm chủng. Do đó, những người cao tuổi hoặc những người có hệ miễn dịch yếu có thể có mức độ bảo vệ do vắc-xin cung cấp để chống lại COVID-19 thấp hơn hoặc khả năng bảo vệ của họ suy giảm nhanh hơn.
Điểm cần lưu ý là những người dễ bị tổn thương nhất về mặt lâm sàng đã được tiêm vắc xin vắc xin cách đây hơn 8 tháng, có thể tăng nguy cơ bị nhiễm COVID do khả năng bảo vệ của vắc xin bị suy giảm.
Bạn có cần phải lo lắng?
Vắc xin vẫn làm giảm đáng kể khả năng bị nhiễm COVID-19. Ở mức cao hơn, vắc xin còn bảo vệ chống lại tình trạng phải nhập viện và tử vong nếu không may bị nhiễm. Tuy nhiên, lo ngại những người đã tiêm vắc xin bị nhiễm COVID gia tăng, nếu khả năng bảo vệ của vắc xin giảm theo thời gian. Do đó, chính phủ Anh đang có kế hoạch cung cấp liều tăng cường cho những người có nguy cơ cao và cũng đang xem xét mở rộng hoạt động tiêm chủng này. Các quốc gia khác, bao gồm Pháp và Đức, đã lên kế hoạch tiêm liều tăng cường cho các nhóm nguy cơ cao.
Tuy nhiên, ngay cả khi sử dụng thêm liều tăng cường, thì cũng không nên hiểu là vắc xin không hoạt động hiệu quả. Trong thời gian chờ đợi, điều cần thiết là phải quảng bá việc tiêm chủng cho tất cả những người đủ điều kiện nhưng chưa tiêm.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/breakthrough-infections-four-factors-that-increase-the-risk-of-vaccinated-people-getting-covid/, 9/9/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/bon-yeu-to-lam-tang-nguy-co-nhiem-covid-o-nhung-nguoi-da-tiem-chung-4005.html)
NHỮNG VẮC XIN CÓ HIỆU QUẢ CHỐNG LẠI BIẾN THỂ DELTA
Cập nhật: ngày 16-9-2021
Một nghiên cứu quốc gia của Hoa Kỳ đã cung cấp dữ liệu đề cập đến những loại vắc xin COVID-19 có hiệu quả trong việc ngăn ngừa các trường hợp nhiễm biến thể Delta phải cấp cứu và nhập viện. Dữ liệu cũng chỉ ra rằng vắc xin Moderna có hiệu quả chống lại biến thể Delta cao hơn đáng kể so với vắc xin Pfizer và Johnson & Johnson.
(Hình minh họa)
TS. Shaun Grannis, Viện phó Viện Nghiên cứu Regenstrief và là giáo sư y học tại Trường Y, Đại học Indiana cho biết: “Dữ liệu thực tế này cho thấy vắc xin vẫn có hiệu quả cao trong việc giảm các trường hợp phải cấp cứu và nhập viện liên quan đến COVID-19, ngay cả khi có sự xuất hiện của biến thể COVID-19 mới. Chúng tôi khuyến nghị mọi người nên tiêm vắc xin để không bị mắc bệnh nặng và giảm bớt gánh nặng cho hệ thống chăm sóc y tế“.
Mạng lưới VISION của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã phân tích hơn 32.000 lượt khám chữa bệnh tại 9 tiểu bang trong ba tháng 6, 7 và 8 năm 2021, khi biến thể Delta trở nên phổ biến. Kết quả cho thấy những người chưa tiêm vắc xin COVID-19, có nguy cơ cần chăm sóc cấp cứu hoặc nhập viện cao gấp 5-7 lần, tương tự như trước khi biến thể Delta xuất hiện.
Nghiên cứu trong Báo cáo hàng tuần về bệnh tật và tử vong cũng là phân tích đầu tiên của Mạng lưới VISION, cho thấy sự khác biệt rõ nét về hiệu quả của vắc xin mRNA (Moderna và Pfizer). Trong khoảng thời gian của nghiên cứu:
• Moderna đạt hiệu quả 95% trong việc ngăn ngừa nhập viện ở người từ 18 tuổi trở lên.
• Pfizer có hiệu quả 80%.
• Johnson & Johnson là 60%.
Theo nghiên cứu, vắc xin phát huy hiệu quả thấp hơn ở những người từ 75 tuổi trở lên, chưa được chứng minh trong nghiên cứu trước đây. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả thời gian sau tiêm chủng.
Khi đề cập đến việc phải khám cấp cứu, phân tích nêu rõ:
• Moderna đạt hiệu quả 92%.
• Pfizer có hiệu quả 77%.
• Johnson & Johnson là 65%.
Các nhà khoa học cho biết những phát hiện này cần được theo dõi và đánh giá thêm. TS. Grannis cho biết: “Dù hiệu quả vắc xin có sự khác biệt, nhưng vắc xin tiếp tục cung cấp khả năng bảo vệ cao hơn so với việc hoàn toàn không tiêm một loại vắc xin nào. Kể cả các trường hợp vẫn bị nhiễm sau khi tiêm vắc xin thì dữ liệu cho thấy các triệu chứng cũng ít nghiêm trọng. Phần lớn các trường hợp nhập viện và tử vong do COVID, tiếp tục xuất hiện ở những người chưa được tiêm chủng. Vắc xin COVID-19 là công cụ mạnh mẽ để chống lại đại dịch“.
N.P.D (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-09-vaccines-effective-delta-variant.html, 9/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/nhung-vac-xin-co-hieu-qua-chong-lai-bien-the-delta-4000.html)
NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG PHẢN ỨNG CỦA KHÁNG THỂ ĐỐI VỚI VẮC XIN PFIZER VÀ MODERNA
Cập nhật: ngày 07-9-2021
Các nhà nghiên cứu tại trường Y thuộc Đại học Virginia, Hoa Kỳ đã tiến hành định lượng phản ứng kháng thể do vắc xin COVID-19 Pfizer và Moderna tạo ra. Đây là một trong những phát hiện sớm nhất so sánh phản ứng kháng thể của hai loại vắc xin. Kết quả đáng chú ý là nồng độ kháng thể ở những người tiêm vắc xin Moderna cao hơn một chút so với những người tiêm vắc xin Pfizer. Sự khác biệt chủ yếu được giải thích thông qua nồng độ kháng thể ở những người tương đối cao tuổi.
(Hình minh họa)
Các nhà nghiên cứu thận trọng không đưa ra kết luận về hiệu quả của vắc xin dựa vào số lượng kháng thể. Họ cho rằng cả hai loại vắc xin đều có hiệu quả đặc biệt sau khi được tiêm cho hàng triệu người trên thế giới. Kết quả nghiên cứu mới chỉ là một mảnh ghép nhỏ trong một hình ghép lớn khi các nhà khoa học đang tìm cách xác định liệu một loại vắc xin có ưu điểm vượt trội hơn ở một số bộ phận cư dân nhất định hay không.
Vắc xin Pfizer và Moderna
Cả vắc xin Pfizer và Moderna đều sử dụng mRNA để dạy hệ miễn dịch cách tự bảo vệ chống lại protein đột biến của COVID. Tuy nhiên, công thức của mỗi loại vắc xin hơi khác nhau, trong đó, Moderna sử dụng nhiều mRNA hơn Pfizer. Điều đó đã thúc đẩy nhóm nghiên cứu tìm cách định lượng và so sánh các phản ứng kháng thể thu được.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã kiểm tra mẫu máu của 167 cán bộ của trường Đại học Virginia đã được tiêm vắc xin. Các mẫu máu chủ yếu được lấy sau khi các nhân viên được tiêm vắc xin liều thứ hai từ một tuần đến 31 ngày, trong đó, có 79 người tiêm Pfizer và 88 người tiêm Moderna. Trong một số trường hợp, các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu máu trước khi cán bộ được tiêm liều thứ hai. Độ tuổi trung bình của những người tham gia nghiên cứu là 42 và 38% từ 50 tuổi trở lên. Phần lớn (72%) là phụ nữ.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng so với Pfizer, Moderna sản sinh nhiều kháng thể hơn trong máu sau liều chích ngừa thứ hai: 68,5 microgam trên mililit (µg/mL) với Moderna và Pfizer là 45,9 µg/mL.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi tác đến phản ứng kháng thể, các nhà khoa học đã phân loại những người tham gia thành 2 nhóm, một nhóm từ 50 tuổi trở xuống và một nhóm trên 50 tuổi. Nhóm tiêm Pfizer từ 50 tuổi trở lên, tạo ra ít kháng thể hơn nhóm trẻ hơn sau khi được tiêm liều thứ hai (tương ứng là 31,1 µg/mL và 59,0 µg/mL). Ở những người được tiêm vắc xin Moderna, không có sự khác biệt về kháng thể ở các nhóm tuổi. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng điều này là do sự khác biệt về lượng mRNA mà vắc-xin sử dụng. Moderna sử dụng nhiều mRNA gấp ba lần Pfizer.
Các nhà khoa học lưu ý rằng họ không xem xét cụ thể các kháng thể “vô hiệu hóa” – loại kháng thể ngăn chặn vi rút xâm nhập vào tế bào. Bên cạnh đó, họ cũng không xem xét các tế bào T và B, đóng vai trò quan trọng khác trong phản ứng miễn dịch của cơ thể. Những nội dung đó sẽ cần được đề cập trong những nghiên cứu phức tạp và mất nhiều thời gian hơn.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới là một điểm dữ liệu quan trọng, giúp các bác sĩ và nhà khoa học đưa ra phản ứng trong tương lai đối với đại dịch. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu hiệu quả lâu dài của vắc xin và đang đánh giá xem có cần tiêm nhắc lại hay không, đặc biệt là ở những người lớn tuổi, những người có thể không tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh như những người trẻ tuổi.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí khoa học JAMA Network Open.
N.P.D (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-09-covid-quantifies-antibody-response-pfizer.html, 2/9/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/nghien-cuu-dinh-luong-phan-ung-cua-khang-the-doi-voi-vac-xin-pfizer-va-moderna-3957.html)
ISRAEL TIÊM VẮC-XIN COVID TĂNG CƯỜNG CHO NGƯỜI TỪ 12 TUỔI TRỞ LÊN
Cập nhật: ngày 31-8-2021
Israel đã mở rộng quyền tiếp cận với vắc-xin COVID-19 liều thứ ba cho bất kỳ ai ở độ tuổi từ 12 trở lên. Thủ tướng Naftali Bennett khẳng định đây là một cách hiệu quả để ngăn chặn số ca nhiễm gia tăng.
Do Israel, một quốc gia có 9,3 triệu dân với số ca lây nhiễm hàng ngày thường xuyên vượt quá 8.000 và nhiều ca nhiễm COVID nghiêm trọng, nên thủ tướng Bennett đã thúc đẩy kế hoạch tiêm vắc xin tăng cường. Ông cho rằng: Liều thứ ba của loại vắc-xin này phát huy tác dụng và hiện có sẵn vắc xin để tiêm cho người từ 12 tuổi trở lên. Với hai triệu người Israel đã được tiêm mũi thứ ba, kết quả rõ ràng là “sự gia tăng tỷ lệ nhiễm bệnh nặng đã bắt đầu chậm lại“.
Bộ trưởng Y tế Nitzan Horowitz cho biết không nghi ngờ gì về việc tiêm nhắc lại “có hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh và làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong“.
Israel đã ghi nhận 7.000 ca nhiễm mới vào chủ nhật (29/8), vượt qua ngưỡng một triệu trường hợp kể từ khi đại dịch bùng phát. Nguyên nhân là do biến thể Delta có khả năng la truyền ở mức cao. Tính đến nay, quốc gia này đã có hơn 6.950 ca tử vong do virus SARS-CoV-2.
Động thái tiêm vắc xin COVID liều thứ ba của một số quốc gia trong đó có Israel, đã vấp phải sự chỉ trích của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). WHO nhấn mạnh các nước nghèo nên được tiếp cận rộng rãi hơn với vắc xin trước khi các nước giàu tiêm liều tăng cường.
N.P.D (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-08-israel-covid-vaccine-booster-ages.html, 8/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/israel-tiem-vac-xin-covid-tang-cuong-cho-nguoi-tu-12-tuoi-tro-len-3945.html)
THUỐC CHỦNG NGỪA RNA COVID GIẢM HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI CHỦNG DELTA
Cập nhật: ngày 30-8-2021
Theo một nghiên cứu mới ở Hoa Kỳ về hiệu quả chống nhiễm trùng của vắc-xin Pfizer và Moderna COVID-19 đã giảm từ 91 xuống còn 66%, khi chủng Delta xuất hiện. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã kiểm tra hiệu suất thực tế của hai loại vắc-xin kể từ khi được sử dụng lần đầu tiên cho các nhân viên y tế và các nhân viên tuyến đầu khác.
(Hình minh họa)
Hàng nghìn công nhân trên sáu tiểu bang đã được kiểm tra hàng tuần và khi bắt đầu xuất hiện các triệu chứng COVID-19, cho phép các nhà nghiên cứu ước tính hiệu quả chống lại nhiễm trùng có triệu chứng và không triệu chứng. Bằng cách xem xét tỷ lệ nhiễm trùng ở những người đã và chưa tiêm chủng và khoảng thời gian họ được theo dõi, hiệu quả của vắc-xin được ước tính là 91% trong giai đoạn nghiên cứu ban đầu từ ngày 14 tháng 12 năm 2020 đến ngày 10 tháng 4 năm 2021. Nhưng trong giai đoạn kể từ trước đến ngày 14 tháng 8, khi biến thể Delta cực kỳ dễ lây lan trở nên chiếm ưu thế, hiệu quả đã giảm xuống còn 66%.
Các tác giả nghiên cứu cho biết: “Mặc dù những phát hiện tạm thời này cho thấy hiệu quả của vắc-xin COVID-19 trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng giảm vừa phải, nhưng việc giảm 2/3 nguy cơ lây nhiễm nhấn mạnh tầm quan trọng và lợi ích của việc tiêm chủng COVID-19”.
Một số nghiên cứu hiện đã kết luận rằng hiệu quả của vắc-xin đã giảm đối với Delta, mặc dù mức độ chính xác của sự sụt giảm đó khác nhau giữa các bài báo. Theo một nghiên cứu gần đây của CDC trên các bệnh nhân ở New York, khả năng bảo vệ chống lại bệnh nặng có vẻ ổn định hơn, vượt quá 90%. Một nghiên cứu khác của CDC về các bệnh nhân ở Los Angeles được thực hiện từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 25 tháng 7 cho thấy những người không được tiêm chủng có nguy cơ nhập viện vì COVID-19 cao hơn 29,2 lần so với những người được tiêm chủng; tương ứng với hiệu quả khoảng 97%.
Delta đã trở thành chủng nổi trội ở Hoa Kỳ. Theo một bài báo gần đây trên Journal of Virological Methods, số lượng vi-rút được tìm thấy trong các xét nghiệm đầu tiên của bệnh nhân có biến thể Delta cao gấp 1.000 lần so với bệnh nhân trong đợt vi-rút đầu tiên vào năm 2020, làm tăng đáng kể khả năng lây lan của nó.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-08-messenger-rna-covid-vaccines-effective.html, 24/8/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/thuoc-chung-ngua-rna-covid-giam-hieu-qua-doi-voi-chung-delta-3935.html)
VẮC XIN MODERNA AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ KHI THỬ NGHIỆM CHO
THANH THIẾU NIÊN
Cập nhật: ngày 26-8-2021
Kết quả của thử nghiệm giai đoạn 3 trên quy mô lớn đối với vắc xin phòng COVID-19 Moderna cho thấy vắc xin này an toàn và hiệu quả khi sử dụng cho thanh thiếu niên từ 12 đến 17 tuổi. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí y học New England.
(Hình minh họa)
Thử nghiệm đã theo dõi gần 4.000 người trong độ tuổi từ 12 đến 17. Nhóm trẻ này đã được sử dụng cùng một phác đồ và liều lượng vắc-xin như đã được thử nghiệm và phê duyệt trước đó dùng cho người lớn.
Cũng như các thử nghiệm trước đây, các tác dụng phụ thường gặp nhất là khó chịu tại vị trí tiêm, nhức đầu và mệt mỏi, nhưng không xuất hiện tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Tỷ lệ tác dụng phụ cấp độ nhẹ ở mọi lứa tuổi là như nhau.
Viêm cơ tim nhẹ trước đây đã được ghi nhận là một tác dụng phụ hiếm gặp của vắc-xin mRNA COVID-19, chủ yếu xuất hiện ở nam giới trẻ tuổi. Thử nghiệm này không phát hiện bất kỳ trường hợp viêm cơ tim hoặc viêm màng ngoài tim nhưng các nhà nghiên cứu cũng lưu ý biến chứng này theo ước tính xuất hiện trong khoảng 13 trường hợp trên một triệu người được chích ngừa.
Xét nghiệm huyết thanh cho thấy phản ứng miễn dịch ở các đối tượng trẻ tuổi tương tự như ở người lớn. Theo các nhà nghiên cứu, do tỷ lệ nhiễm COVID-19 ở thanh thiếu niên ít hơn, nên thử nghiệm này đã hạ thấp tiêu chí xác định các trường hợp dương tính. Chỉ một triệu chứng được sử dụng để phân loại tình trạng nhiễm bệnh có triệu chứng. Dựa vào tiêu chí đã xác định, thử nghiệm vẫn không phát hiện trường hợp nào nhiễm COVID-19 có triệu chứng sau khi tiêm hai liều vắc xin, cho thấy vắc xin Moderna rất hiệu quả ở thanh thiếu niên.
Công ty Moderna lần đầu tiên công bố dữ liệu thử nghiệm này vào tháng 5 trước khi dữ liệu được bình duyệt và xuất bản sau đó. Vào cuối tháng 7, Cơ quan Dược phẩm châu Âu đã phê duyệt sử dụng vắc xin Moderna cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi. Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA), Hoa Kỳ cũng đã phê duyệt khẩn cấp sử dụng vắc xin Moderna cho thanh thiếu niên, dù đã cho phép sử dụng Pfizer, vắc xin mRNA tương tự, cho nhóm tuổi này vào tháng 4 năm nay.
Cả hai công ty Pfizer và Moderna hiện đang thử nghiệm vắc xin mRNA cho các nhóm trẻ dưới 12 tuổi. Do lo ngại về các tác dụng phụ hiếm gặp, FDA gần đây đã yêu cầu cả hai công ty mở rộng quy mô thử nghiệm cho nhiều trẻ hơn.
Các thử nghiệm được phân loại cho ba nhóm tuổi: 5 đến 11, 2 đến 5 và 6 tháng đến 2 tuổi. Các thử nghiệm của công ty Pfizer được thực hiện sớm hơn một chút so với công ty Moderna, nên dữ liệu sơ bộ cho nhóm tuổi từ 5 – 11 sẽ được công bố sớm nhất là vào tháng 9 năm nay.
N.P.D (NASATI), theo https://newatlas.com/health-wellbeing/moderna-coronavirus-vaccine-safe-effective-teenagers-study/, 11/8/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-moderna-an-toan-va-hieu-qua-khi-thu-nghiem-cho-thanh-thieu-nien-3888.html)
SAU 7 THÁNG NHIỄM BỆNH, CÁC KHÁNG THỂ ĐỐI VỚI SARS-COV-2 VẪN ỔN ĐỊNH HOẶC THẬM CHÍ TĂNG LÊN
Cập nhật: ngày 14-8-2021
Mức độ kháng thể IgG chống lại protein Spike SARS-CoV-2 vẫn ổn định, hoặc thậm chí tăng lên, bảy tháng sau khi nhiễm bệnh, theo một nghiên cứu tiếp theo của một nhóm nhân viên y tế do Viện Y tế Toàn cầu Barcelona (ISGlobal) điều phối, phối hợp với Bệnh viện Bệnh viện Barcelona. Kết quả được công bố trên tạp chí Nature Communications cũng ủng hộ ý tưởng rằng các kháng thể có từ trước chống lại các coronavirus cảm lạnh thông thường có thể bảo vệ chống lại COVID-19.
Để dự đoán diễn biến của đại dịch và phát triển các chiến lược hiệu quả, điều quan trọng là phải hiểu rõ hơn về động lực và thời gian miễn dịch đối với SARS-CoV-2 cũng như vai trò có thể có của các kháng thể có từ trước đối với các coronavirus gây cảm lạnh thông thường. Với mục tiêu này, nhà nghiên cứu Carlota Dobaño đã theo dõi một nhóm thuần tập gồm những nhân viên y tế tại Bệnh viện (nghiên cứu SEROCOV) từ đầu đại dịch, để đánh giá mức độ kháng thể chống lại các SARS-CoV-2 khác nhau kháng nguyên theo thời gian. Dobaño cho biết: “Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá các kháng thể đối với một nhóm lớn các kháng thể SARS-CoV-2 trong 7 tháng”.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích mẫu máu của 578 người tham gia, được lấy ở bốn thời điểm khác nhau từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2020. Họ sử dụng công nghệ Luminex để đo, trong cùng một mẫu, mức độ và loại kháng thể IgA, IgM hoặc IgG đối với sáu SARS-CoV -2 kháng nguyên cũng như sự hiện diện của các kháng thể chống lại 4 coronavirus gây cảm lạnh thông thường ở người. Và phân tích hoạt động trung hòa của các kháng thể với sự cộng tác của nhóm nghiên cứu tại Đại học Barcelona. Nghiên cứu được tài trợ bởi mạng lưới đổi mới châu Âu EIT Health.
Kết quả cho thấy phần lớn các ca nhiễm trùng ở những nhân viên y tế xảy ra trong đợt đại dịch đầu tiên (tỷ lệ người tham gia có kháng thể SARS-CoV-2 chỉ tăng nhẹ trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 10 – từ 13,5% lên 16,4%). Ngoại trừ kháng thể IgM và IgG chống lại nucleocapsid (N), phần còn lại của kháng thể IgG (bao gồm cả những kháng thể có hoạt tính trung hòa) vẫn ổn định theo thời gian, khẳng định kết quả từ các nghiên cứu gần đây khác.
Đồng tác giả nghiên cứu, Gemma Moncunill, cho biết: “Thật đáng ngạc nhiên, chúng tôi thậm chí còn thấy sự gia tăng các kháng thể IgG chống Spike ở 75% số người tham gia từ tháng thứ năm trở đi, mà không có bất kỳ bằng chứng nào về việc tái tiếp xúc với vi-rút. Không có tái nhiễm nào được quan sát thấy trong nhóm thuần tập”.
Về các kháng thể chống lại coronavirus ở người (HCoV), các kết quả cho thấy chúng có thể mang lại sự bảo vệ chéo chống lại bệnh hoặc nhiễm trùng COVID-19. Những người bị nhiễm SARS-CoV-2 có mức kháng thể HCoV thấp hơn. Hơn nữa, những người không có triệu chứng có mức kháng thể IgG và IgA kháng HCoV cao hơn những người bị nhiễm trùng có triệu chứng. Dobaño nói: “Mặc dù khả năng bảo vệ chéo bằng khả năng miễn dịch đã có từ trước đối với coronavirus cảm lạnh thông thường vẫn còn được xác nhận, nhưng điều này có thể giúp giải thích sự khác biệt lớn về tính nhạy cảm với bệnh trong dân số”.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-08-antibodies-sars-cov-stable-months-infection.html, 6/8/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/sau-7-thang-nhiem-benh-cac-khang-the-doi-voi-sars-cov-2-van-on-dinh-hoac-tham-chi-tang-len-3882.html)
HÀN QUỐC CẢNH BÁO VỀ CA NHIỄM BIẾN THỂ MỚI DELTA PLUS
Cập nhật: ngày 10-8-2021
Theo Cơ quan Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hàn Quốc (KDCA), Hàn Quốc đã phát hiện hai trường hợp đầu tiên nhiễm biến thể Delta Plus trong khi nước này đang phải đương đầu với làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ tư.
(Hình minh họa)
Biến thể Delta Plus là dòng phụ của biến thể Delta, lần đầu tiên được xác định ở Ấn Độ và đã gây đột biến protein cầu gai có tên là K417N. Đột biến này cũng được tìm thấy trong biến thể Beta, được phát hiện lần đầu ở Nam Phi. Có rất ít báo cáo về các trường hợp nhiễm Delta Plus. Tại một số quốc gia như Anh, Bồ Đào Nha và Ấn Độ đã ghi nhận một số trường hợp nhiễm biến thể mới này.
KDCA cho biết: “Trường hợp đầu tiên ở Hàn Quốc nhiễm biến thể Delta Plus được xác định là một người đàn ông khoảng 40 tuổi và không có lịch sử đi du lịch nước ngoài trong thời gian gần đây. Nguồn lây nhiễm đang được điều tra”. Kết quả xét nghiệm khoảng 280 người tiếp xúc với người đàn ông này, cho thấy chỉ con trai bệnh nhân là dương tính. Chưa xác định được liệu cậu con trai có bị nhiễm biến thể Delta Plus hay không.
Trường hợp thứ hai là một du khách trở về từ Hoa Kỳ. Người này đã tiêm đủ hai mũi AstraZeneca (AZN.L) trước chuyến đi.
Giới chức y tế cho rằng một số loại vắc xin đang được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia, có khả năng chống lại biến thể Delta rất dễ lây lan. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là một số loại vắc xin có thể không hiệu quả trong việc ngăn ngừa biến thể mới.
Theo dữ liệu phân tích di truyền của KDCA, 64% trong số 3.014 ca nhiễm vào tuần trước là do biến thể Delta gây ra. Đây là dấu hiệu cho thấy biến thể này cũng đang lan tràn ở Hàn Quốc. Tuy vậy, tỷ lệ người đã tiêm vắc xin đầy đủ bị nhiễm, vẫn ở mức thấp.
Một số nhà khoa học cho rằng biến thể Delta Plus thậm chí còn có tốc độ lan truyền nhanh hơn. Ấn Độ và các quốc gia khác trên thế giới đang kiểm tra hiệu quả của vắc xin trong việc chống lại biến thể này.
Trong ngày 2/8, Hàn Quốc có 1.202 ca nhiễm COVID-19 mới, nâng tổng số người bị nhiễm lên 202.203 người, trong đó có 2.104 ca tử vong.
Tính đến ngày 3/8, Hàn Quốc đã chủng ngừa ít nhất một mũi cho 20 triệu người, tương đương với 39% dân số. 14,1% dân số Hàn Quốc đã tiêm đủ 2 mũi. Hàn Quốc đặt mục tiêu trước tháng 9 này sẽ tiêm chủng cho ít nhất 36 triệu người.
N.P.D (NASATI), theo https://www.reuters.com/world/asia-pacific/skorea-detects-its-first-two-cases-delta-plus-covid-19-variant-2021-08-03/, 3/8/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/han-quoc-canh-bao-ve-ca-nhiem-bien-the-moi-delta-plus-3855.html)
VẮC XIN COVID-19 DẠNG XỊT MŨI CÓ NHIỀU ƯU ĐIỂM
Cập nhật: ngày 05-8-2021
Trong số gần 100 loại vắc xin SARS-CoV-2 hiện đang được thử nghiệm lâm sàng, chỉ có bảy loại được cung cấp qua đường mũi. Theo một nghiên cứu mới của trường Đại học Alabama ở Anh, có nhiều lý do khiến vắc xin dạng xịt mũi chống lại vi rút SARS-CoV-2 sẽ hữu ích trong cuộc chiến chống COVID-19.
(Hình minh họa)
So với tiêm bắp, cung cấp vắc xin qua đường mũi tạo thêm hai hàng rào bảo vệ do khả năng sản sinh: 1) immunoglobulin A và các tế bào B và T ghi nhớ nằm trong niêm mạc đường hô hấp và là hàng rào chống nhiễm trùng tại các vị trí đó rất hiệu quả và 2) các tế bào B và T ghi nhớ với chức năng phản ứng chéo, có thể phản ứng sớm hơn các tế bào miễn dịch khác khi biến thể của vi rút bắt đầu tấn công.
Ở một góc độ nào đó, nhóm nghiên cứu cho rằng vắc-xin dạng xịt mũi có thể có lợi trong cuộc chiến chống COVID-19, đặc biệt là khi các vi rút đường hô hấp như SARS-CoV-2 chủ yếu xâm nhập đầu tiên là qua đường mũi.
Các loại vắc xin COVID-19 được phép sử dụng hiện nay được cung cấp qua đường tiêm bắp, nơi chúng tạo ra các phản ứng miễn dịch toàn thân và khả năng ghi nhớ của hệ miễn dịch trung tâm. Mặc dù vi-rút có xu hướng thâm nhập qua đường hô hấp, nhưng rất ít vắc xin dạng xịt mũi cung cấp kháng nguyên trực tiếp đến vị trí nhiễm trùng, đang được nghiên cứu.
Nghiên cứu mới đề cập đến tiềm năng của vắc-xin COVID-19 dạng xịt được cung cấp qua đường mũi, đồng thời, nêu bật những ưu, nhược điểm và lý do sử dụng chúng khi so sánh với lựa chọn tiêm bắp. Ngoài việc không cần dùng kim tiêm, vắc xin dạng xịt mũi còn cung cấp thêm hai hàng rào bảo vệ so với vắc xin tiêm bắp.
Nhóm nghiên cứu lưu ý, các chiến lược tiêm chủng hiệu quả không nên giới hạn ở một hệ thống cung cấp vắc xin duy nhất và đề xuất chiến lược tiêm chủng lý tưởng kết hợp tiêm bắp mũi một và mũi nhắc lại là xịt qua đường mũi.
N.P.D (NASATI), theo https://scitechdaily.com/advantages-of-intranasal-covid-19-vaccinations-over-injections/ và https://www.technologynetworks.com/biopharma/news/advantages-of-intranasal-delivery-of-covid-19-vaccines-351273, 30/7/2021
Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-covid-19-dang-xit-mui-co-nhieu-uu-diem-3838.html
PHƯƠNG PHÁP ĐỘT PHÁ PHÁT HIỆN BIẾN THỂ SARS-COV-2 TRONG NƯỚC THẢI
Cập nhật: ngày 28-7-2021
Các nhà nghiên cứu tại Liên minh Nghiên cứu và Công nghệ Singapore-MIT (SMART), trường Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) (Singapore) và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) (Hoa Kỳ) đã phát triển thành công phương pháp phát hiện phân tử mang tính sáng tạo và ở dạng mã nguồn mở để tìm ra và định lượng biến thể B.1.1.7 (Alpha) của SARS-CoV-2. Bước đột phá này mở đường cho việc theo dõi các biến thể SARS-CoV-2 khác trong nước thải một cách nhanh chóng và ít tốn kém.
(Ảnh minh họa)
Thế giới vẫn đang phải gồng mình chống COVID-19, đặc biệt gần đây là sự xuất hiện của các biến thể SARS-CoV-2 với khả năng lây lan mạnh và nguy hiểm hơn cho thấy sự cần thiết phải phát triển các phương pháp tiện dụng để theo dõi các biến thể của virus. Hiện nay, các biến thể được xác định bao gồm biến thể B.1.17 (Alpha) được xác định đầu tiên ở Vương quốc Anh và biến thể B.1.617.2 (Delta) được phát hiện lần đầu ở Ấn Độ.
Quan trắc nước thải đã nổi lên như một công cụ y tế công cộng quan trọng để theo dõi đại dịch SARS-CoV-2 theo cách an toàn và hiệu quả mà không xâm lấn, cung cấp thông tin bổ sung cho phép các cơ quan y tế đưa ra hành động phù hợp ở cấp cộng đồng. Gần đây, các mảnh virus của SARS-CoV-2 đã được phát hiện trong các khu dân cư tại Singapore thông qua chương trình quan trắc nước thải chủ động. Thông tin này, cùng với hoạt động kiểm tra giám sát, cho phép Bộ Y tế Singapore (BYT) nhanh chóng phản ứng, cô lập và tiến hành các xét nghiệm sàng lọc như một phần của các biện pháp phòng ngừa.
Tuy nhiên, việc phát hiện các biến thể thông qua quan trắc nước thải còn ít phổ biến do những thách thức của công nghệ hiện có. Công nghệ giải trình tự thế hệ mới (NGS) được sử dụng để quan trắc nước thải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Ngoài ra, công nghệ cũng thiếu độ nhạy cần để phát hiện các biến thể nồng độ thấp trong các mẫu nước thải pha loãng và hỗn tạp do phạm vi lập trình tự không nhất quán và/hoặc thấp.
Phương pháp đột phá mới giải quyết những thách thức nêu trên và mở rộng tiện ích quan trắc nước thải ngoài thử nghiệm SARS-CoV-2, hướng tới theo dõi sự lan tràn của các biến thể SARS-CoV-2 đáng lo ngại. Trong báo cáo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Environmental Science & Technology Letters, các nhà khoa học đã giải thích phương pháp phát hiện phân tử mang tính sáng tạo và ở dạng mã nguồn mở dựa vào RT-qPCR dành riêng cho alen (dạng cụ thể của một gen và có chức năng di truyền nhất định) để phát hiện và định lượng biến thể B.1.1.7 (Alpha). Thí nghiệm với các mẫu nước thải thu thập từ 19 cộng đồng ở Hoa Kỳ cho thấy, công nghệ mới có thể phát hiện và định lượng một cách đáng tin cậy biến thể B.1.1.7 (Alpha) nồng độ thấp với phản ứng chéo thấp và tỷ lệ biến thể ở mức 1 % trong hỗn hợp vi-rút SARS-CoV-2.
Phương pháp mới nhằm vào các đột biến protein cầu gai có khả năng dự báo chính xác biến thể B.1.1.7 (Alpha), nên có thể được áp dụng bằng cách sử dụng các giao thức RT-qPCR có sẵn trên thị trường. Không giống như các sản phẩm thương mại trên thị trường sử dụng đầu đo độc quyền để quan trắc nước thải, phương pháp mới ở dạng mã nguồn mở nên các tổ chức và viện nghiên cứu có thể sử dụng miễn phí để quan trắc SARS-CoV-2 và các biến thể của nó trong nước thải.
Công nghệ mới hiện đang được Biobot Analytics, công ty hàng đầu thế giới về dịch tễ học nước thải có trụ sở tại Massachusetts, Hoa Kỳ, sử dụng cho các bang và địa phương trong cả nước. Qua đó, họ có thể phân tích các mẫu nước thải để phát hiện biến thể B.1.1.7 (Alpha) và dự kiến bổ sung các biến thể để tiến hành phân tích.
Nhóm nghiên cứu hiện đang triển khai các thử nghiệm cụ thể để phát hiện và định lượng biến thể B.1.617.2 (Delta) của SARS-CoV-2 đang gây nhiều lo ngại.
N.P.D (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-07-smart-breakthrough-sars-cov-variant-wastewater.html, 21/7/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/phuong-phap-dot-pha-phat-hien-bien-the-sars-cov-2-trong-nuoc-thai-3807.html)
CHIẾN LƯỢC VẮC-XIN TỪ TẾ BÀO T CHO BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ COVID-19
Cập nhật vào: ngày 13-7-2021
Các nhà nghiên cứu miễn dịch học tại Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KAIST) phát hiện ra hầu hết bệnh nhân điều trị COVID-19 đều phát triển và duy trì trí nhớ tế bào T trong hơn 10 tháng bất kể mức độ nghiêm trọng của những triệu chứng của họ. Ngoài ra, tế bào T bộ nhớ tăng sinh nhanh chóng sau khi gặp kháng nguyên cognate và thực hiện vai trò đa chức năng. Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết mới về các chiến lược vắc xin hiệu quả chống lại COVID-19, xem xét khả năng tự đổi mới và tính đa năng của các tế bào T bộ nhớ.
COVID-19 là một bệnh do nhiễm coronavirus-2 (SARS-CoV-2) hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng gây ra. Khi bệnh nhân hồi phục sau COVID-19, trí nhớ miễn dịch thích ứng đặc hiệu SARS-CoV-2 được phát triển. Hệ thống miễn dịch thích ứng bao gồm hai thành phần chính: tế bào B sản xuất kháng thể và tế bào T loại bỏ tế bào bị nhiễm bệnh. Kết quả hiện tại cho thấy rằng chức năng miễn dịch bảo vệ của tế bào T bộ nhớ sẽ được thực hiện khi tái tiếp xúc với SARS-CoV-2.
Gần đây, vai trò của tế bào T bộ nhớ chống lại SARS-CoV-2 đã được chú ý khi các kháng thể trung hòa biến mất sau khi phục hồi. Mặc dù các tế bào T bộ nhớ không thể tự ngăn chặn sự lây nhiễm, nhưng chúng đóng vai trò trung tâm trong việc ngăn chặn sự tiến triển nghiêm trọng của COVID-19. Tuy nhiên, tuổi thọ và khả năng duy trì chức năng của các tế bào T bộ nhớ đặc hiệu SARS-CoV-2 vẫn chưa được biết.
Giáo sư Eui-Cheol Shin và các cộng sự của ông đã nghiên cứu các đặc điểm và chức năng của tế bào T trí nhớ giống tế bào gốc, được cho là sẽ đóng vai trò quan trọng trong khả năng miễn dịch lâu dài. Nhóm nghiên cứu đã phân tích việc tạo ra các tế bào T bộ nhớ giống tế bào gốc và đa cytokine tạo ra các tế bào T bộ nhớ đa chức năng, bằng cách sử dụng một số kỹ thuật miễn dịch tiên tiến.
Nghiên cứu này có ý nghĩa trong việc tìm ra khả năng miễn dịch lâu dài của bệnh nhân điều trị COVID-19 cung cấp một chỉ số liên quan đến sự tồn tại lâu dài của miễn dịch tế bào T, một trong những mục tiêu chính của sự phát triển vắc-xin trong tương lai, cũng như đánh giá lâu dài hiệu quả của vắc xin COVID-19 hiện có.
Các nhà khoa học hiện đang tiến hành một nghiên cứu tiếp theo để xác định sự hình thành tế bào T trí nhớ và các đặc điểm chức năng của những người được tiêm vắc-xin COVID-19, đồng thời tìm hiểu tác dụng miễn dịch của vắc xin COVID-19 bằng cách so sánh các đặc điểm của tế bào T trí nhớ từ những người được tiêm chủng với bệnh nhân điều trị COVID-19.
Tiến sĩ Jae Hyung Jung và Tiến sĩ Min-Seok Rha đến từ Bệnh viện Yonsei Severance, đã giải thích: “Phân tích của chúng tôi sẽ nâng cao hiểu biết về khả năng miễn dịch COVID-19 và thiết lập chỉ số cho COVID-19 do vắc-xin gây ra tế bào T bộ nhớ”.
Giáo sư Eui-Cheol Shin, cho biết: Nghiên cứu này là nghiên cứu dài nhất trên thế giới về sự khác biệt và chức năng của tế bào T nhớ ở bệnh nhân điều trị COVID-19. Nghiên cứu về động lực thời gian của các phản ứng miễn dịch đã đặt cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển vắc xin thế hệ tiếp theo. Công trình này được hỗ trợ bởi Quỹ Khoa học và Công nghệ Samsung và KAIST, được xuất bản trên tạp chí Nature Communications.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-07-cells-covid-convalescents-vaccine-strategies.html, 05/07/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/chien-luoc-vac-xin-tu-te-bao-t-cho-benh-nhan-dieu-tri-covid-19-3759.html)
BẢN ĐỒ DỊCH TỄ COVIDMAP
Cập nhật vào: ngày 09-7-2021
Công ty cổ phần Công nghệ Phenikaa MaaS (đơn vị thành viên của Tập đoàn Phenikaa) đã hỗ trợ hơn 10 tỉnh/thành phố xây dựng Bản đồ dịch tễ Covid (CovidMap) dựa trên công nghệ lõi về bản đồ từ ứng dụng BusMap.
Công nghệ lõi về bản đồ được ứng dụng lần đầu trong việc phát triển ứng dụng BusMap của Phenikaa MaaS, nhằm hỗ trợ miễn phí cho người dân di chuyển bằng xe buýt công cộng theo cách thuận tiện, dễ dàng hơn, tiết kiệm chi phí và thời gian hơn. Tính thời điểm hiện tại, ứng dụng BusMap đã được hơn 2 triệu lượt tải, nằm trong nhóm 1% những ứng dụng có hơn 1 triệu lượt tải của Playstore và có hơn 400.000 tài khoản hoạt động thường xuyên mỗi tháng. Trung bình mỗi tháng có khoảng 50 triệu lượt hành khách đi xe buýt tại TP. Hồ Chí Minh và có khoảng 20% số lượt hành khách đó sử dụng ứng dụng BusMap khi di chuyển. BusMap đã được Phenikaa MaaS triển khai tại ba thành phố lớn của Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng – cũng như một số các đô thị lớn trong khu vực Đông Nam Á như Bangkok và Chiang Mai.
Phenikaa MaaS đã làm chủ công nghệ lõi về bản đồ, hỗ trợ thành phố Đà Nẵng xây dựng bản đồ dịch tễ CovidMap khi dịch bệnh bùng phát tại đây vào tháng 8/2020. Bản đồ CovidMap là một công cụ hỗ trợ người dân nhận diện trực tiếp, dễ dàng và nhanh chóng những địa điểm có nguy cơ lây nhiễm cao, từ đó có lộ trình di chuyển thích hợp và tránh đi vào vùng dịch. Đồng thời, bản đồ CovidMap cũng giúp chính quyền địa phương theo dõi, kiểm tra, thống kê số liệu nhanh chóng, chính xác.
Bản đồ CovidMap đã được triển khai miễn phí tới hơn 10 tỉnh/thành trên toàn quốc, bao gồm Bắc Giang, Đà Nẵng, Hải Dương, Hà Tĩnh, Lạng Sơn… và đang tiếp tục mở rộng hỗ trợ tới các tỉnh/thành khác. Sắp tới Phenikaa MaaS sẽ hỗ trợ các tỉnh/thành tích hợp thêm thông tin về đăng ký tiêm chủng, xác nhận tiêm chủng lên bản đồ CovidMap theo tình hình thực tế tại địa phương. Thông qua những sản phẩm công nghệ của mình, Phenikaa MaaS hướng tới trở thành một doanh nghiệp hàng đầu cung cấp các giải pháp, sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực giao thông thông minh, thành phố thông minh, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
CovidMap được xem là một giải pháp công nghệ thông minh và có ý nghĩa thiết thực, góp phần tích cực trong công cuộc phòng chống Covid tại Việt Nam.
P.A.T (NASATI)
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/ban-do-dich-te-covidmap-3735.html)
KHẨU TRANG PHÁT HIỆN COVID-19
Cập nhật vào: ngày 07-7-2021
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và trường Đại học Harvard đã áp dụng công nghệ cảm biến sinh học tiên tiến để chế tạo loại khẩu trang mới phát hiện SARS-CoV-2 trong hơi thở của người đeo chỉ trong vòng 90 phút. Công nghệ cảm biến có thể được lập trình để phát hiện bất kỳ loại vi rút hoặc độc tố nào và đủ nhỏ để tích hợp vào quần áo.
(Hình minh họa)
Cảm biến sinh học đã được phát triển trong vài năm dựa vào công nghệ wFDCF mới. Không giống như các cảm biến sinh học được chế tạo trước đây cần có sự kết hợp của các tế bào sống, hệ thống này chiết xuất và làm đông khô bộ máy tế bào cần để phát hiện các phân tử hữu cơ.
Công nghệ wFDCF trước đây đã được áp dụng để tạo ra các công cụ thử nghiệm chẩn đoán vi rút Ebola và Zika. Khoảng một năm trước, khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên khắp thế giới, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng thử nghiệm biến đổi công nghệ thành một sản phẩm hữu ích để ứng phó với đại dịch này.
“Chúng tôi muốn góp phần vào nỗ lực toàn cầu để chống lại vi rút và chúng tôi đã nảy ra ý tưởng tích hợp công nghệ wFDCF vào khẩu trang để phát hiện SARS-CoV-2”, Luis Soenksen, đồng tác giả nghiên cứu cho biết. “Toàn bộ dự án được thực hiện trong điều kiện kiểm dịch hoặc cách ly xã hội nghiêm ngặt bắt đầu từ tháng 5 năm 2020“.
Cho đến nay, khẩu trang là ứng dụng tiên tiến nhất của công nghệ wFDCF. Một số cảm biến sinh học trong khẩu trang được kích hoạt khi ấn nút, giải phóng khối lượng nước nhỏ. Chất lỏng này hydrat hóa các phân tử đông khô trong cảm biến có khả năng phân tích các giọt bắn nhỏ từ hơi thở của người đeo. Trong vòng 90 phút, một dải giấy nhỏ cho người đeo biết họ đang dương tính hay âm tính với SARS-CoV-2 thông qua đọc kết quả tương tự như kết quả của que thử thai.
Peter Nguyen, một trong số các tác giả nghiên cứu, cho biết: “Về cơ bản, chúng tôi đã thu nhỏ toàn bộ phòng thí nghiệm chẩn đoán thành một cảm biến sinh học tổng hợp nhỏ, hoạt động với bất kỳ loại khẩu trang nào và đạt được độ chính xác cao của xét nghiệm PCR với tốc độ và chi phí thấp như xét nghiệm kháng nguyên”.
Các thử nghiệm sơ bộ cho thấy khẩu trang chẩn đoán cho kết quả có độ chính xác cao, sánh ngang các xét nghiệm PCR phát hiện SARS-CoV-2 hiện nay. Loại khẩu trang mới tích hợp công nghệ wFDCF, đã sẵn sàng được tung ra thị trường nhưng công nghệ này còn có nhiều ứng dụng khác ngoài chẩn đoán COVID-19.
“Công nghệ mới có thể được tích hợp vào áo khoác phòng thí nghiệm cho các nhà khoa học nghiên cứu vật liệu nguy hiểm hoặc mầm bệnh, bộ quần áo phẫu thuật cho bác sỹ và y tá hoặc đồng phục cho quân nhân và những người phản ứng đầu tiên có thể tiếp xúc với mầm bệnh hoặc chất độc nguy hiểm như khí độc thần kinh”, Nina Donghia, đồng tác giả nghiên cứu mới.
Các nhà nghiên cứu hiện đang tìm kiếm các đối tác để triển khai sản xuất thương mại khẩu trang phát hiện COVID-19.
N.P.D (NASATI), theo https://newatlas.com/science/face-mask-detects-coronavirus-mit-harvard-biosensor/, 28/6/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/khau-trang-phat-hien-covid-19-3726.html)
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CÁC BIẾN THỂ CỦA VI-RÚT CORONA MỚI VỚI CHI PHÍ THẤP
Cập nhật vào: ngày 30-06-2021
Các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Karolinska ở Thụy Điển đã phát triển được công nghệ giám sát hiệu quả chi phí sự lây lan của các biến thể SARS-CoV-2 mới trên toàn cầu. Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí khoa học Nature Communications.
Kể từ khi đại dịch bùng phát, hàng nghìn bộ gen của vi-rút corona đã được giải trình tự để tái tạo lại quá trình tiến hóa và sự lây lan của chúng trên toàn cầu. Điều này rất quan trọng đối với việc xác định các biến thể liên quan đặc biệt dễ lây lan, gây bệnh hoặc kháng với các loại vắc xin hiện có.
Để giám sát bộ gen của SARS-CoV-2 trên toàn cầu, điều quan trọng là phải giải trình tự và phân tích nhiều mẫu theo cách hiệu quả chi phí. Do đó, các nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Bienko-Crosetto thuộc Viện Nghiên cứu Karolinska và Phòng thí nghiệm Khoa học sự sống (SciLifeLab) ở Thụy Điển đã đưa ra một phương pháp mới, được gọi là COVseq, để giám sát bộ gen của vi rút trên quy mô lớn với chi phí thấp.
Đầu tiên, nhiều bản sao của bộ gen vi rút được tạo ra bằng cách sử dụng kỹ thuật PCR (phản ứng chuỗi trùng hợp) đa thành phần. Sau đó, các mẫu được dán nhãn và gộp lại với nhau trong cùng một thư viện giải trình tự nhờ có phương pháp trước đây được phát triển trong phòng thí nghiệm Bienko-Crosetto và hiện đã được điều chỉnh để phân tích SARS-CoV-2.
“Bằng cách thực hiện các phản ứng với khối lượng rất nhỏ và gộp hàng trăm mẫu vào cùng một thư viện giải trình tự, mỗi tuần, chúng tôi có thể giải trình tự hàng nghìn bộ gen vi rút với chi phí gần 15 USD/mẫu“, Ning Zhang, đồng tác giả nghiên cứu nói.
Các phân tích so sánh 29 mẫu dương tính với SARS-CoV-2 cho thấy kỹ thuật COVseq có khả năng xác định những thay đổi nhỏ trong bộ gen tương tự như phương pháp thông thường. Theo kết quả phân tích 245 mẫu bổ sung, COVseq cũng có khả năng cao trong việc phát hiện các biến thể vi rút corona mới xuất hiện gây lo ngại. Ưu điểm chính của COVseq so với các phương pháp hiện có là hiệu quả chi phí.
Nicola Crosetto, đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Phương pháp giá rẻ của chúng tôi có thể được các cơ quan y tế công cộng sử dụng ngay lập tức để giám sát bộ gen của vi rút SARS-CoV-2 và cũng có thể dễ dàng được điều chỉnh dùng cho các vi rút ARN khác như vi rút cúm và sốt xuất huyết”.
N.P.D (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-06-low-cost-method-coronavirus-variants.html, 23/6/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/phuong-phap-xac-dinh-cac-bien-the-cua-vi-rut-corona-moi-voi-chi-phi-thap-3711.html)
SARS-COV-2 ĐỘT BIẾN ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU LỰC CỦA VACCINE?
Cập nhật: ngày 24-6-2021
Trong đợt bùng phát dịch lần thứ tư này, hàng loạt báo Việt Nam đưa tin về việc Bộ Y tế thông báo phát hiện virus SARS -CoV-2 đã có “biến thể lai”. Ngay lập tức, hầu hết các hãng thông tấn quốc tế dẫn lại thông tin này và coi đây là “biến thể nguy hiểm”, “có khả năng lây lan qua không khí nhanh hơn”, dẫn tới khó khống chế dịch hơn.
Virus corona có cấu tạo đơn giản chỉ gồm lớp vỏ protein và lõi nhân là RNA. Ảnh: ncov.moh.gov.vn/
Vài ngày sau, tổ chức Y tế thế giới WHO đã xác nhận biến thể corona ở Việt Nam không phải “lai” Anh – Ấn mà là một đột biến đã được phát hiện trong biến thể Ấn Độ và cho biết cần tiếp tục theo dõi.
Tuy nhiên, những cảnh báo và lo lắng đó khiến chúng ta tự hỏi, khi nào thì một đột biến của virus trở nên nguy hiểm? Các vaccine hiện nay có giúp chúng ta chống lại được các virus mang đột biến hay không? Trước hết chúng ta cùng nhìn và tìm hiểu về cơ chế đột biến của virus SARS-CoV-2.
Virus luôn “tự phẫu thuật chỉnh hình”:
Đột biến là một trong những tiến hóa bình thường của virus khi chúng tự sao chép và nhân lên trong cơ thể người (hoặc vật chủ khác). Thông thường các nhà khoa học quan tâm đến đột biến xảy ra trên protein S – là protein cấu tạo nên gai bên ngoài đặc trưng của virus SARS-CoV-2. Protein S là “chìa khóa” để virus mở cánh cửa của tế bào vì những chiếc gai này được sử dụng để mở một “ổ khóa” gọi là thụ thể ACE2 trên tế bào của người, từ đó kích hoạt cho virus đi vào cơ thể người. Muốn chặn đường tấn công của virus vào cơ thể người, chỉ có thể trông chờ vào kháng thể. “Người lính gác” này đủ nhạy bén để nhận diện protein S và không cho nó chạm vào “ổ khóa ACE2”. Kháng thể được sinh ra nhờ hai cách: 1. Cơ thể đã tự sinh kháng thể (do đã từng nhiễm virrus trước đó); 2. Các nhà khoa học sẽ thiết kế vaccine để sau khi tiêm cơ thể đủ khả năng sinh kháng thể, bất hoạt được chiếc chìa khóa protein S.
Đột biến của virus sẽ ảnh hưởng tới việc nó bám vào tế bào và trốn tránh kháng thể của hệ miễn dịch, thông thường có hai chiều hướng: hoặc làm virus có khả năng bám chắc hơn, gây độc nhiều hơn cho cơ thể người hoặc là yếu dần đi để dễ bề chung sống dài lâu hơn với con người.
Cũng giống như các loại virus nói chung, corona có cấu tạo đơn giản chỉ gồm lớp vỏ protein và lõi nhân là RNA nên luôn có ưu thế vượt trội so với con người về khả năng đột biến để thích nghi và tồn tại. Vì thế virus SARS-CoV-2 liên tục tiến hóa bằng cách sinh ra các đột biến như một cách “phẫu thuật chỉnh hình” để lính gác kháng thể không nhận diện ra “đời con cháu” mình. Nghĩa là mỗi một lần “sinh đẻ” rất chóng vánh (bằng quá trình tự nhân lên theo kiểu copy rồi dán), cấu tạo của virus lại được cập nhật một chút, chủ yếu nằm ở sự thay đổi RNA của virus – chứa các thông tin di truyền guanine, uracil, adenine, và cytosine (viết tắt bằng ký tự G, U, A, C).
Trong quá trình đột biến xảy ra trên RNA của virus, giống như “phẫu thuật chỉnh hình”, thì tại một điểm nào đó, các ký tự G, U, A, C sẽ được thay thế bằng các ký tự khác hoặc virus mất hẳn một đoạn mã di truyền, từ đó làm protein S thay đổi. Tuy vậy, điều may mắn với con người là các nhà khoa học có thể theo dõi sát sao sự thay đổi này qua việc giải trình tự gene của virus và nhận thấy không phải đột biến nào cũng đáng ngại, không phải lần “phẫu thuật chỉnh hình” nào cũng giúp protein S của virus qua mặt được “lính gác” kháng thể để gõ cửa mở khóa vào tế bào.
Mỗi khi tìm thấy các đột biến đáng ngờ, các nhà khoa học phải thực hiện các thí nghiệm để đánh giá trên hai khía cạnh:
Đánh giá đột biến có làm tăng khả năng lây nhiễm hay không nhờ thí nghiệm dựa trên mô hình tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm và động vật. Bằng cách so sánh với chủng virus gốc, tính xem số lượng virus xâm nhập vào tăng lên (hoặc giảm xuống) bao nhiêu lần trong cùng một điều kiện thí nghiệm.
Đánh giá đột biến có khả năng làm giảm tác dụng của vaccine, trốn thoát hệ miễn dịch của người đã mắc bệnh hay không bằng cách tiến hành các thí nghiệm sử dụng huyết thanh (của người được tiêm phòng hoặc người đã khỏi bệnh COVID-19) để tương tác với virus, rồi đem nhiễm vào tế bào phù hợp (thường là các tế bào có chứa thụ thể ACE2). Thí nghiệm quan sát khả năng của kháng thể có trong huyết thanh dẫn tới sự thay đổi khả năng xâm nhiễm của chủng virus mới so với chủng gốc hay không.
Virus SARS-CoV-2 đột biến trên cả bộ gene của nó một cách ngẫu nhiên và liên tục, và phần lớn các thay đổi này không làm ảnh hưởng tới đặc tính (lây nhiễm, mức độ độc hại) của virus. Nhưng khi phân tích qua các thí nghiệm thấy khả năng lây nhiễm hoặc kháng lại kháng thể của virus tăng lên, thì các nhà khoa học sẽ đánh giá đó là đột biến có đáng ngại hay không.
Có cần cập nhật các thiết kế vaccine mới?
Để đánh giá hiệu quả của vaccine, chúng ta phải theo dõi các đột biến, xem nó có “trốn” được vaccine hay không. Nguyên nhân là vì vaccine được thiết kế dựa vào trình tự của protein S của corona nên khi virus sinh đột biến mới, tạo ra protein S khác so với hình dáng cũ mà “người lính gác” kháng thể đã ghi nhớ nằm lòng sau khi tiêm vaccine thì kháng thể sẽ lúng túng không nhận diện được một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên thật đáng mừng là các nghiên cứu hiện nay cho thấy các vaccine vẫn có khả năng bảo vệ chứ không phải là giảm hoàn toàn tác dụng.
Nếu nhìn vào đột biến mất Y144 được tìm thấy trong gene virus SARS-CoV-2 ở Việt Nam trong đợt dịch thứ tư, ta sẽ thấy không phải là “đột biến” lai gì mới như thông tin từ báo chí Việt Nam và đã được tìm thấy cả ở chủng của Anh, Ấn Độ. Vậy nó có ảnh hưởng gì đến hiệu quả của vaccine không? Có nghiên cứu trước đây cho rằng nó có thể làm giảm khả năng bám của kháng thể lên protein S của virus và có thể làm giảm hiệu quả phần nào của vaccine hiện tại. Điều này không gây ngạc nhiên bởi vì các nhà khoa học vẫn đang đánh giá hiệu quả vaccine lên chủng Ấn Độ. Vaccine Astrazeneca đang được tiêm ở Việt Nam có hiệu quả lần lượt với các biến thể, biến chủng Ấn Độ, Anh*: tiêm đủ 2 liều có hiệu quả bảo vệ khoảng 60 hoặc 66% với từng biến thể (so với 70% ở chủng ban đầu); giúp bệnh không tiến triển nặng dẫn tới phải nằm viện (92 và 86%), giảm triệu chứng khi nhiễm virus (74 và 64%) và quan trọng là người mắc sẽ không tử vong. Hiệu lực bảo vệ của Pfizer còn cao hơn (lần lượt 88 và 92%).
Đứng trước các thách thức biến chủng mới vừa trở nên nguy hiểm hơn vừa có khả năng lẩn tránh kháng thể do vaccine tạo ra, các công ty như Pfizer, Moderna đang tiến hành nghiên cứu vaccine cập nhật thay đổi trên protein S của chủng mới này. Người ta hi vọng, khi virus trốn thoát miễn dịch trở nên nguy hiểm rồi thì sẽ có liều vaccine bổ sung, vaccine bổ sung sẽ mang protein S có đột biến mới giúp cho cơ thể tạo ra kháng thể phù hợp để nhận ra protein mới của virus và chống chủng mới hiệu quả hơn.
Hiện nay, chúng ta cũng chưa biết corona có khả năng trở thành cúm mùa hay sẽ bị tiêu diệt. Nếu trường hợp thứ hai xảy ra thì số phận của nó tương tự người chị em của nó là SARS-CoV gây bệnh SARS hồi năm 2002-2003 (bị tiêu diệt trước khi sinh đột biến để trốn tránh và tồn tại lâu hơn). Khả năng này cũng có thể bởi tuy nó sinh đột biến nhưng tốc độ vẫn còn chậm hơn so với virus khác như HIV hoặc virus cúm mùa. Nếu tiến độ phát triển vaccine của con người mau lẹ hơn virus này, qua đó làm giảm lượng virus đang lưu hành, giảm lượng người bị nhiễm bệnh thì virus không còn khả năng biến đổi, lúc đó virus sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, không còn cơ hội trở thành virus cúm mùa nữa.
Tuy nhiên nếu trường hợp thứ nhất xảy ra khi tình hình dịch bệnh vẫn không thể dập tắt hẳn như dịch SARS-CoV, các biến thể mới của virus tiếp tục tạo ra và làm giảm hiệu quả của vaccine thì có thể chúng ta phải tiêm nhắc lại vaccine với những biến đổi phù hợp theo mùa, theo năm. Tuy nhiên, việc chừng nào cần để chích liều bổ sung (mỗi 1 năm, 2 năm hoặc hơn) thì vẫn còn chưa được trả lời rõ ràng vì virus SARS-CoV-2 vẫn còn quá mới và cần tiếp tục theo dõi các biến thể của virus.
Lần “chỉnh hình” nào đáng sợ?
Chúng ta có thể nhìn sang trường hợp của biến thể B.1.617, một biến thể xuất phát từ Ấn Độ, nơi gần với Việt Nam, gây lo ngại nhiều trong thời gian gần đây và đang xuất hiện nhiều trong đợt dịch lần thứ tư này để làm rõ các đột biến nào có mặt trong biến chủng này và gây hại cho cơ thể người ra sao.
Biến thể Ấn Độ có một số đột biến khá tương đồng với các biến thể khác được tìm thấy ở Anh, Brazil, Nam Phi hoặc ở California, Mỹ. Các đột biến này đã được chứng minh là có khả năng làm tăng tốc độ lan truyền của virus và làm giảm tác dụng của các kháng thể kháng virus được tạo ra trong người hồi phục sau khi nhiễm bệnh COVID-19 hoặc sau khi tiêm vaccine COVID-19. Trong các đột biến trên chủng B.1.617 thì ba đột biến sau đây trên protein S được quan tâm nhiều hiện nay:
E484Q. Đột biến ở vị trí 484, thay thế amino axit glutamic thành glutamine. Đột biến này khá giống với đột biến E484K trên chủng Nam Phi – thay thế amino axit glutamic thành lysine. Đột biến này được dự đoán có thể giúp virus bám vào thụ thể ACE2 của con người tốt hơn (tăng khả năng lây nhiễm), cũng như khả năng lẩn tránh để không bị hệ miễn dịch của người nhận dạng tốt hơn.
L452R. Đột biến ở vị trí 452, hay thế leucine thành arginine, cũng giúp cho protein gai của virus dễ bám vào thụ thể ACE2 hơn và cũng làm hệ thống miễn dịch của cơ thể người giảm khả năng nhận biết hơn.
P681R. Đột biến ở vị trí 681 làm thay thế proline thành arginine. Điểm đột biến này nằm ở vị trí cắt của enzyme furin trên protein S, quá trình cắt này giúp virus xâm nhập thành công vào bên trong tế bào. Do vậy, đột biến này có thể giúp tăng khả năng lây nhiễm của virus.
Ngoài ra, cũng có những đột biến khá “ổn định”. Ví dụ, so với virus “nguyên thủy” khởi phát từ Vũ Hán thì kể từ khi lan sang châu Âu rồi lang thang đi khắp thế giới, virus SARS -CoV-2 đã nảy sinh một đột biến mang tên D614G. D614G cũng giúp cho virus có khả năng lây lan nhanh hơn so với chủng cũ trước đó và có mặt ổn định ở biến thể Ấn Độ cũng như tất cả các biến thể khác.
Dĩ nhiên là chúng ta nên lo lắng trước các đột biến vì chúng cho thấy xu hướng trở nên dễ lây nhiễm hơn và làm giảm hiệu quả của vaccine hiện tại. Để làm giảm các đột biến chỉ có cách là làm giảm số lượng người bị nhiễm virus vì chỉ khi virus sống và sinh sản thì chúng mới có khả năng tạo đột biến. Do vậy, tiêm vaccine (và giãn cách khi chưa có vaccine) là điều cần thiết để ngăn cản virus tiếp tục tiến hóa theo chiều hướng nguy hiểm thêm.
Nguồn: Báo KH&PT
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/sars-cov-2-dot-bien-anh-huong-den-hieu-luc-cua-vaccine-3679.html)
VẮC-XIN PFIZER, ASTRAZENECA HIỆU QUẢ CAO CHỐNG LẠI
BIẾN THỂ DELTA
Cập nhật: ngày 21/6/2021
Theo phân tích mới của Tổ chức Y tế Cộng đồng Anh (Public Health England – PHE), hai vắc xin Pfizer và AstraZeneca’s Covid-19 có hiệu quả cao trước biến thể Delta (B16172) và giúp bệnh nhân không phải nhập viện.
(Hình mang tính minh họa)
Phân tích cho thấy rằng vắc-xin Pfizer-BioNTech có hiệu quả 96% sau tiêm hai liều, trong khi vắc-xin Oxford-AstraZeneca có hiệu quả 92%. Kết quả này có thể so sánh với vắc-xin chống lại biến thể Alpha (B117): 96% sau hai liều vắc-xin Pfizer và 92% sau hai liều vắc-xin AstraZeneca.
Phân tích được thực hiện dựa trên 14.019 trường hợp nhiễm biến thể Delta, 166 trường hợp trong số đó đã phải nhập viện trong giai đoạn từ 12/4 đến 4/6/2021, khi xem xét các trường hợp cấp cứu ở Anh. “Bằng chứng về hiệu quả của hai liều đối với các biến thể cho thấy tầm quan trọng của việc tiêm lần thứ hai. Nó sẽ giúp cứu sống và thúc đẩy phục hồi nhanh hơn“, Bộ trưởng Y tế và Xã hội Anh Matt Hancock, cho biết trong một tuyên bố.
“Những phát hiện cực kỳ quan trọng này xác nhận rằng vắc-xin cung cấp khả năng bảo vệ đáng kể khiến giảm số ca nhập viện với biến thể Delta. Vắc-xin là công cụ quan trọng nhất mà chúng ta có để chống lại Covid-19. Hàng ngàn sinh mạng đã được cứu sống nhờ chúng. Điều quan trọng là phải có được cả hai liều ngay sau khi chúng được cung cấp, để có được sự bảo vệ tối đa chống lại tất cả các biến thể hiện có“, Tiến sĩ Mary Ramsay, Trưởng bộ phận Tiêm chủng tại PHE cho biết thêm.
Một nghiên cứu của PHE vào tháng 5/2021 cho thấy ba tuần sau liều đầu tiên của cả vắc-xin Pfizer và AstraZeneca chỉ cung cấp 33% khả năng bảo vệ chống lại biến thể Delta, trong khi nó cung cấp 50% hiệu quả chống lại biến thể Alpha.
Biến thể B16172 được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ và là một trong ba chủng có liên quan. Nó đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố là một biến thể gây lo ngại toàn cầu vào tháng trước. Nó có khả năng lây truyền cao hơn 60% so với chủng Alpha được xác định ở Anh.
P.A.T (NASATI), theo https://www.business-standard.com/, 16/6/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-pfizer-astrazeneca-hieu-qua-cao-chong-lai-bien-the-delta-3672.html)
TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI NHẤT CHO NGHIÊN CỨU, SẢN XUẤT VACCINE PHÒNG COVID-19
Cập nhật: ngày 18/6/2021
Theo Thông báo 160/TB-VPCP ngày 13/06/2021 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi gặp mặt với các nhà khoa học, các đơn vị doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng COVID-19, Thủ tướng yêu cầu tập trung tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc về pháp lý, cơ chế, chính sách trên tinh thần bám sát thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu về nhận thức cần thống nhất vaccine có tính chất quyết định, chiến lược, lâu dài trong phòng, chống dịch nói chung và trong phòng, chống dịch COVID-19 nói riêng, đồng thời phải nằm trong chiến lược tổng thể nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine để vừa chủ động trong phòng, chống dịch vừa tiết kiệm ngân sách nhà nước cả trước mắt và lâu dài.
Triển khai đồng bộ mua, sản xuất và tiêm vaccine an toàn, hiệu quả
Trong triển khai chiến lược vaccine, cần thực hiện đồng bộ, bao gồm: mua, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine trong nước đồng thời tổ chức, triển khai chiến dịch tiêm vaccine kịp thời, an toàn, hiệu quả.
Nhận thức nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine vừa là sản phẩm xã hội vừa là sản phẩm thương mại. Do đó, mọi chiến lược, kế hoạch, chính sách phải phù hợp với tính chất xã hội, tính chất thương mại của vaccine.
Sản xuất vaccine góp phần phát triển công nghiệp Dược, một thế mạnh của nước ta. Cần quán triệt “Phát triển công nghiệp Dược làm nền tảng cho phát triển vaccine, đáp ứng yêu cầu tích cực chủ động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân” và tiết kiệm ngân sách cho nhà nước.
Kế thừa và phát triển sự chỉ đạo của các thế hệ lãnh đạo về phát triển vaccine, phát huy hiệu quả, thành tựu đã đạt được trong công tác phòng, chống dịch bệnh, sản xuất vaccine của nhiều thế hệ các nhà khoa học và cơ sở sản xuất vaccine thời gian qua; đồng thời khắc phục bằng được các hạn chế bất cập cả về nhận thức, về tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện để đầu tư, tập trung nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine trong nước.
Sản xuất vaccine là khó khăn, thách thức nhưng phải làm bằng được
Thủ tướng nhấn mạnh, về tư tưởng chỉ đạo, việc nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất vaccine là khó khăn, thách thức nhưng phải làm bằng được vì có sản xuất được vaccine mới chủ động trong phòng chống dịch và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân. Cần có quyết tâm cao và niềm tin là Việt Nam sẽ sản xuất được vaccine phòng COVID-19, để người dân tin, tích cực tham gia, đóng góp nguồn lực vào nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất và tham gia thử nghiệm, sử dụng vaccine.
Thủ tướng lưu ý, những việc càng khó, phức tạp, nhạy cảm đặc biệt liên quan đến tính mạng, sức khỏe của người dân thì càng phải giữ đúng nguyên tắc, quy trình, quy định, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, bàn bạc kỹ càng thống nhất, lắng nghe, tiếp thu đầy đủ ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản xuất để quyết định thực hiện.
Phải đặt lợi ích của Quốc gia, của Dân tộc, của Nhân dân, cộng đồng lên trên hết, trước hết để đưa ra các chính sách, tổ chức nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất, phân phối, sử dụng vaccine phù hợp, hiệu quả với phương châm 5 thật: “nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, người dân và doanh nghiệp thụ hưởng thật“.
Phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt. Do nguồn lực, thời gian có hạn nên phải chọn việc trọng tâm, trọng điểm để tập trung giải quyết; do vaccine liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người dân nên phải thực hiện khoa học, đúng quy trình, quy định nhưng làm việc nào dứt điểm việc ấy và phải có hiệu quả, thiết thực, không để lãng phí nguồn lực.
Song song với việc nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất, phải đẩy mạnh thử nghiệm theo quy trình nghiêm ngặt, chặt chẽ, kỹ lưỡng và xây dựng chương trình, kế hoạch, chiến dịch tiêm chủng vaccine kịp thời, an toàn, hiệu quả.
Huy động nguồn lực cho nghiên cứu, sản xuất vaccine
Về nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu phải xây dựng Chiến lược, Chương trình Quốc gia, Kế hoạch lâu dài, toàn diện để nghiên cứu sản xuất, chuyển giao công nghệ vaccine, đặc biệt là vaccine phòng COVID-19.
Đồng thời, tập trung tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc về pháp lý, cơ chế, chính sách trên tinh thần bám sát thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine; vướng mắc liên quan đến cấp nào thì đề xuất cấp đó giải quyết theo phương châm 3 không: “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm“; cái gì đã chín, đã rõ, đã được thực tiễn chứng minh là đúng, thực hiện có hiệu quả, được đa số đồng tình thì triển khai ngay; cái gì chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn thì mạnh dạn làm thí điểm, vừa làm, vừa hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội.
Triển khai nhiều giải pháp huy động nguồn lực tài chính, kinh phí cho nghiên cứu, sản xuất vaccine, trong đó phải có giải pháp hợp tác công – tư trên nguyên tắc hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa lợi ích Nhà nước, Nhà khoa học và Doanh nghiệp, đó là nguyên tắc. Đối với từng Chương trình, Dự án cụ thể thì phải thảo luận thống nhất được về nguyên tắc và kết quả hài hòa lợi ích và chia sẻ rủi ro giữa ba nhà: Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp để triển khai thực hiện.
Thủ tướng giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì cùng Bộ Y tế, các Bộ ngành có liên quan đề xuất ban hành và ban hành ngay cơ chế, chính sách để tập hợp, thu hút các nhà khoa học; khích lệ, phát huy lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc; đồng thời có chế độ đãi ngộ, động viên, khen thưởng phù hợp, kịp thời để các nhà khoa học trong nước, ngoài nước cùng tham gia, đóng góp cho việc nghiên cứu, sản xuất vaccine, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine với quy định rõ ràng, công khai, minh bạch. Có chính sách nuôi dưỡng, duy trì, phát triển một cách lâu dài, ổn định các nhà khoa học nghiên cứu, sản xuất vaccine chân chính.
Nghiên cứu, ban hành quy trình thử nghiệm, đánh giá, cấp phép vaccine theo thủ tục rút gọn nếu quy trình luật pháp cho phép trên tinh thần “chống dịch như chống giặc” nhưng phải tuân thủ nguyên tắc khoa học, bám sát thực tiễn, bảo đảm kịp thời, an toàn, minh bạch, khách quan và phục vụ hiệu quả chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, trước hết là các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp và người dân.
Thủ tướng cũng yêu cầu công tác tuyên truyền phải đúng hướng, hiệu quả, bám sát quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam“; đẩy mạnh tuyên truyền để người dân có cảm hứng, tin tưởng và ủng hộ chủ trương sản xuất và tiêm vaccine do Việt Nam sản xuất.
Thành lập trung tâm nghiên cứu, sản xuất vaccine quốc gia đạt tiêu chuẩn quốc tế
Thủ tướng Chính phủ giao Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống dịch làm đầu mối chỉ đạo nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine. Đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Chương trình Quốc gia về vaccine nói chung, trong đó trước mắt đặc biệt chú ý nghiên cứu sản xuất vaccine phòng COVID-19.
Bộ Y tế, cơ quan quản lý nhà nước về vaccine, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chuyển giao công nghệ, sản xuất, tổ chức chiến dịch tiêm vaccine phòng COVID-19, thành lập trung tâm nghiên cứu, sản xuất vaccine quốc gia đạt tiêu chuẩn quốc tế; đề xuất cấp có thẩm quyền những vấn đề còn vướng mắc để tháo gỡ kịp thời. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan dự báo tình hình, cân đối cung cầu hợp lý vaccine tránh tình trạng “lúc thiếu, lúc thừa không đúng lúc” để điều tiết chính sách vĩ mô kịp thời, hiệu quả.
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước đề xuất cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ việc nghiên cứu vaccine, chuyển giao công nghệ sản xuất và cơ chế thông thoáng về nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế; chủ trì, triển khai nghiên cứu và sản xuất vaccine trong Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030; hỗ trợ đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với công nghệ sản xuất vaccine; phối hợp với Bộ Y tế trong việc xây dựng Trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine, Trung tâm thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng; nhưng chú ý vấn đề quy hoạch sản xuất và phát huy hiệu quả hợp tác công tư.
Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách về tiêu chuẩn, điều kiện, chế độ trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 và trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine phòng COVID-19.
Các kiến nghị về đầu tư, sử dụng nguồn lực, cơ chế, chính sách… của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà sản xuất vaccine là chính đáng, phù hợp với tình hình, Chính phủ giao đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam thay mặt Chính phủ xử lý giải quyết và báo cáo Thường trực Chính phủ.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ trân trọng cảm ơn Nhân dân, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, các nhà quản lý đã góp phần làm nên thành quả chung của cả nước, trong đó có thành quả về chống dịch, bảo đảm sản xuất, kinh doanh, đóng góp vào Quỹ vaccine phòng, chống dịch COVID-19 và nhất là góp phần vào việc nghiên cứu, chuyển giao sản xuất và tham gia thí nghiệm tiêm chủng vaccine phòng, chống dịch COVID-19.
Thủ tướng Chính phủ kêu gọi các tầng lớp nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học, các doanh nhân, doanh nghiệp nêu cao tinh thần yêu nước đóng góp tích cực vào sự nghiệp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 với tinh thần “Ai có ít góp ít, ai có nhiều đóng góp nhiều” để chúng ta thực hiện thành công chiến lược vaccine.
NASATI (Theo Thông báo 160/TB-VPCP)
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tao-dieu-kien-thuan-loi-nhat-cho-nghien-cuu-san-xuat-vaccine-phong-covid-19-3664.html)
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ KHÁNG THUỐC TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Cập nhật: ngày 14/6/2021
Suckhoedoisong.vn – Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, đến nay đã có nhiều các thông tin sai lệch xung quanh cách phòng và điều trị căn bệnh này, trong đó cho rằng, kháng sinh có thể trị được COVID-19 dẫn tới việc lạm dụng thuốc kháng sinh.
Mối đe dọa kháng kháng sinh thời COVID-19
Trong một thông cáo báo chí của WHO cho biết, tỷ lệ kháng kháng sinh (AMR) cao trong số các kháng sinh thường được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng thông thường, chẳng hạn như nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc bệnh tiêu chảy. Tình trạng này báo động nguy cơ thế giới đang dần hết cách hiệu quả để điều trị các loại bệnh này. Tại 33 quốc gia ghi nhận báo cáo, tỷ lệ kháng với ciprofloxacin, một loại kháng sinh thường được sử dụng để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu, dao động từ 8.4% đến 92.9%.
Xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng do việc sử dụng không hợp lý thuốc kháng sinh trong đại dịch COVID-19. Trong khi chỉ có một phần nhỏ bệnh nhân COVID-19 cần tới kháng sinh để điều trị việc nhiễm khuẩn.
Chúng ta đều biết, COVID-19 là do SARS-CoV-2 gây ra, vì vậy kháng sinh không có tác dụng chống lại virus. Mặc dù một số bệnh nhân mắc COVID-19 được điều trị bằng kháng sinh, nhưng đó là biện pháp dùng để điều trị các nhiễm trùng cơ hội hay còn gọi là biến chứng do nhiễm khuẩn bội nhiễm. Nhưng các trường hợp này, việc dùng kháng sinh phải được khuyến nghị bởi các thầy thuốc, dựa trên tình trạng bệnh tật của bệnh nhân tại bệnh viện.
Vi khuẩn đang kháng lại nhiều loại kháng sinh
Một số phương pháp điều trị cụ thể đang được nghiên cứu và sẽ được kiểm tra thông qua các thử nghiệm lâm sàng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đang giúp đẩy nhanh các nỗ lực nghiên cứu và phát triển các loại thuốc, vaccine phòng ngừa và điều trị COVID-19. WHO cũng đã ban hành hướng dẫn không sử dụng liệu pháp kháng sinh hoặc điều trị dự phòng cho bệnh nhân mắc COVID -19 nhẹ hoặc bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh COVID -19 trừ khi có một chỉ định lâm sàng phải sử dụng kháng sinh để điều trị.
Thế giới cần chung tay giám sát sử dụng kháng sinh
Khi đại dịch COVID-19 đang lây lan mạnh mẽ các quốc gia thế giới, trong buổi họp trực tuyến tháng 6/2020, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus cảnh báo: Thế giới đang mất khả năng sử dụng các loại thuốc kháng sinh cực kỳ quan trọng”.
Cũng trong buổi họp này, ông Tedros cho rằng: Đại dịch COVID-19 đã làm gia tăng việc sử dụng kháng sinh. Điều này sẽ gây ra tỷ lệ kháng kháng sinh (AMR) cao hơn.
Gọi mối đe dọa của tình trạng kháng kháng sinh là “một trong những thách thức cấp bách nhất của thời đại”, ông Tedros kêu gọi thế giới tìm ra những mô hình mới để khuyến khích đổi mới bền vững trong vấn đề này nhằm bảo vệ những thành quả y tế đã đạt được trong thế kỷ trước và bảo đảm một tương lai an toàn.
WHO đã thực hiện chương trình báo cáo Hệ thống giám sát sử dụng và kháng kháng sinh toàn cầu (GLASS) vào năm 2018. Khi đó, mới chỉ có 729 khu vực ở 22 quốc gia tham gia vào hệ thống giám sát này. Hàng năm, số lượng các quốc gia tham gia hệ thống khảo sát đã tăng lên theo cấp số nhân. Chỉ trong 3 năm, GLASS hiện đã tổng hợp dữ liệu từ hơn 64.000 địa điểm giám sát với hơn 2 triệu bệnh nhân ở 66 quốc gia trên toàn thế giới.
Balkhy – trợ lý Tổng giám đốc WHO về vấn đề kháng kháng sinh, cho hay: “Hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng kháng sinh trong đại dịch COVID-19 sẽ giúp các quốc gia vượt qua COVID-19 hiệu quả và ngăn chặn sự xuất hiện AMR”.
TS.Balkhy cho rằng phải tăng cường hợp tác và đối tác toàn cầu, bao gồm giữa khu vực công và tư nhân để cung cấp các khuyến khích tài chính và phi tài chính nhằm phát triển các loại thuốc kháng sinh mới.
Cho đến nay, vẫn chưa có thuốc nào được khuyến nghị để ngăn ngừa hoặc điều trị COVID-19 một cách đặc hiệu. Những người bị nhiễm virus cần được cách ly chăm sóc thích hợp để làm giảm và điều trị các triệu chứng và những người bị bệnh nặng cần được chăm sóc hỗ trợ tối ưu vẫn là biện pháp đang được thế giới áp dụng để “đối phó” với căn bệnh này.
(Nguồn: https://suckhoedoisong.vn/giai-phap-han-che-khang-thuoc-trong-dai-dich-covid-19-n194508.html)
DS.Ngọc Uyển
CÔNG THỨC DINH DƯỠNG ĐẶC BIỆT TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE MÙA DỊCH
Cập nhật: ngày 09/6/2021
Suckhoedoisong.vn – Bộ Y tế khuyến khích người dân áp dụng công thức dinh dưỡng 4–5-1 vào bữa ăn hàng ngày bên cạnh việc tăng cường vận động và giữ gìn vệ sinh cá nhân cũng như môi trường sống, để mỗi người sẽ là “một lá chắn thép” vững chắc trong công cuộc chiến đấu với COVID-19.
Nội dung nằm trong chuỗi hoạt động Chiến dịch truyền thông “Niềm tin chiến thắng” được Bộ Y tế phát động nhằm nâng cao nhận thức của người dân cần tiếp tục thực hiện phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong trạng thái bình thường mới, vừa chống dịch hiệu quả vừa khôi phục và phát triển kinh tế.
Một trong những biện pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 hiệu quả, người dân cần thực hiện chế độ dinh dưỡng đầy đủ, hợp lý và xây dựng lối sống lành mạnh tạo thành thói quen có lợi sức khỏe để đẩy lùi dịch bệnh. Việc thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp tăng sức đề kháng để có một sức khỏe tốt phòng, chống lại dịch bệnh.
Công thức dinh dưỡng 4–5-1: Tăng cường sức khỏe mùa dịch
Cân bằng dinh dưỡng là chìa khóa để tăng cường sức đề kháng
Chế độ ăn cân đối 4 yếu tố
+ Cân đối giữa 3 nhóm chất sinh năng lượng trong chế độ ăn (Carbohydrate; protein; lipid)
+ Cân đối về protein (giữa đạm động vật và thực vật)
+ Cân đối về lipid (giữa lipid động vật và lipid thực vật)
+ Cân đối về vitamin và khoáng chất.
Có ít nhất 5 nhóm trong 8 nhóm thực phẩm
+ Nhóm lương thực: Gạo, bột mì
+ Nhóm hạt các loại
+ Nhóm sữa và các chế phầm từ sữa
+ Nhóm thịt các loại, cá và hải sản
+ Nhóm trứng và các sản phẩm từ trứng
+ Nhóm củ quả màu vàng, da cam, rau xanh thẫm
+ Nhóm rau củ quả khác
+ Nhóm dầu ăn, mỡ các loại
Dinh dưỡng một ngày phải cân đối, an toàn
Một bữa ăn hoặc dinh dưỡng trong một ngày cần sự hài hòa giữa các nhóm chất và thực phẩm
Kết hợp lựa chọn thực phẩm an toàn kể cả tươi sống và thực phẩm công nghiệp
Lưu ý khi lựa chọn thực phẩm công nghiệp
+ Chọn thực phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng
+ Chọn thực phẩm có công bố chất lượng đầy đủ
+ Đọc kỹ thông tin về giá trị dinh dưỡng của thực phẩm trên bao bì
+ Chọn sản phẩm có bao bì rõ thông tin thành phần nguyên liệu và hạn sử dụng
+ Quy trình sản xuất minh bạch đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm
+ Không nên tích trữ nhiều để luôn sử dụng được sản phẩm tươi mới
Bên cạnh đó vận động thường xuyên tại nhà cũng giúp ta phòng bệnh hiệu quả
+ Chỉ cần 30 phút/ ngày bằng bất cứ cách nào bạn thích:
+ Nhún nhảy theo các bài hát yêu thích
+ Tích cực lên xuống cầu thang
+ Yoga nhẹ nhàng cũng tốt
+ Hoặc đốt mỡ thừa nhiều hơn với các bài tập cùng tạ nặng.
(Nguồn:https://suckhoedoisong.vn/bo-y-te-khuyen-cao-cong-thuc-dinh-duong-dac-biet-tang-cuong-suc-khoe-mua-dich-n178765.html?fbclid=IwAR0GZElK88gCNxi2f5zGPpOFOzo6mmSbGOWfgnMsKeD1xRv__p3D4ffwzZU)
D.Hải
CÁC BIẾN THỂ SARS-COV-2 KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHẢN ỨNG CỦA TẾ BÀO T
Cập nhật: 07/6/2021
Trong một nghiên cứu mới, các nhà khoa học tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông (HKUST) cho biết hầu hết các biểu mô tế bào T được biết đến là mục tiêu lây nhiễm tự nhiên dường như không bị ảnh hưởng bởi các biến thể SARS-CoV-2 hiện tại.
Trong nghiên cứu mới nhất, nhóm đã tổng hợp và phân tích dữ liệu từ 18 nghiên cứu miễn dịch học về phản ứng của tế bào T liên quan đến hơn 850 bệnh nhân COVID-19 đã phục hồi từ khắp bốn châu lục, những người này phân bổ tốt về độ tuổi, giới tính, mức độ bệnh và thời gian lấy máu. Họ đã chứng minh rằng các tế bào T ở những bệnh nhân này nhắm mục tiêu vào các đoạn epitop của hầu hết tất cả các protein của virus, bao gồm cả protein đột biến là mục tiêu chính của nhiều loại vắc xin hiện có. Là một phát hiện quan trọng, dựa trên phân tích hơn 850.000 trình tự di truyền SARS-CoV-2 từ khắp nơi trên thế giới, hầu hết các biểu mô này dường như không bị ảnh hưởng bởi các biến thể đang được quan tâm.
Giáo sư Ahmed Abdul Quadeer, Trợ lý Nghiên cứu từ Khoa Kỹ thuật Điện tử và Máy tính, cho biết: “Chúng tôi tập trung đặc biệt vào các bệnh nhân COVID-19 đã phục hồi vì phản ứng miễn dịch của họ là đại diện cho các phản ứng hiệu quả chống lại vi rút”.
Giáo sư Matthew McKay từ Khoa Kỹ thuật Điện tử và Máy tính và Kỹ thuật Hóa học và Sinh học, người đồng dẫn đầu nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi tin rằng đây là một tin tốt, đặc biệt là đối với vắc xin. Ngược lại với phản ứng của kháng thể đã được chứng minh là bị ảnh hưởng bởi các biến thể, phân tích của chúng tôi sẽ cho thấy phản ứng của tế bào T có thể tương đối mạnh, giả sử rằng phản ứng của vắc xin bắt chước phản ứng của nhiễm trùng tự nhiên“.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích hơn 700 biểu mô tế bào T, xác định 20 biểu mô cụ thể, họ gọi là biểu mô miễn dịch – gây ra phản ứng của tế bào T trong nhiều nhóm độc lập và trong một phần lớn bệnh nhân được thử nghiệm. Trong số này, năm người xuất hiện có tỷ lệ miễn dịch cao, ghi lại các phản ứng của tế bào T trong ít nhất bốn nghiên cứu miễn dịch học riêng biệt.
Giáo sư McKay cho biết thêm: “Các biểu mô miễn dịch hóa trị được xác định đại diện cho các bộ phận của virus thường được các tế bào T nhắm đến ở những bệnh nhân COVID-19 đã hồi phục. Nhưng tùy thuộc vào nghiên cứu thực nghiệm, việc nhắm mục tiêu vào các biểu mô này có thể đóng vai trò trong việc góp phần vào kết quả bệnh thuận lợi”.
Dữ liệu tổng hợp đã được tích hợp vào một nền tảng web, mà nhóm dự định sẽ cập nhật khi có thêm các nghiên cứu miễn dịch học về biểu mô tế bào T SARS-CoV-2 được báo cáo. Nền tảng này là một tài nguyên trực tuyến cho cộng đồng nghiên cứu toàn cầu và bổ sung cho nghiên cứu đang diễn ra về việc tìm hiểu phản ứng của tế bào T chống lại SARS-CoV-2. Nó được dùng để hướng dẫn các nghiên cứu liên quan đến vắc xin và chẩn đoán COVID-19.
Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2021-05-meta-analysis-sars-cov-variants-affect-cell.html, 26/5/2021
(Nguồn:https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/cac-bien-the-sars-cov-2-khong-co-kha-nang-anh-huong-den-phan-ung-cua-te-bao-t-3633.html)
THÀNH LẬP CƠ SỞ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VẮC XIN COVID-19 MRNA ĐỂ MỞ RỘNG QUY MÔ SẢN XUẤT TOÀN CẦU
Cập nhật: ngày 02/6/2021
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các đối tác đang tìm cách phát triển năng lực của các nước có thu nhập thấp và trung bình (LMIC) để sản xuất vắc xin COVID-19 và mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng cường khả năng tiếp cận toàn cầu với các công cụ quan trọng này để kiểm soát đại dịch.
Nghiên cứu vắc xin COVID-19 tại Việt Nam (Ảnh Vietnamnet)
WHO sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập một (hoặc nhiều, nếu thích hợp) cơ sở chuyển giao công nghệ(1) sẽ sử dụng như mô hình trục bánh xe và nan hoa (REF) để chuyển giao một gói công nghệ toàn diện và cung cấp đào tạo thích hợp cho các nhà sản xuất quan tâm đến LMIC. Sáng kiến này ban đầu sẽ ưu tiên công nghệ vắc-xin mRNA(2) nhưng có thể mở rộng sang các công nghệ khác trong tương lai.
Mục đích là các cơ sở này cho phép thiết lập quy trình sản xuất ở cấp độ công nghiệp hoặc bán công nghiệp, cho phép đào tạo và cung cấp tất cả các quy trình vận hành tiêu chuẩn cần thiết để sản xuất và kiểm soát chất lượng. Điều quan trọng là công nghệ được sử dụng không bị ràng buộc về sở hữu trí tuệ trong LMIC hoặc các quyền đó được cung cấp cho trung tâm công nghệ và những người tiếp nhận công nghệ trong tương lai thông qua các giấy phép không độc quyền để sản xuất, xuất khẩu và phân phối vắc xin COVID-19 trong LMIC, bao gồm cả qua cơ sở COVAX. Ưu tiên sẽ được nhường cho những ứng viên đã tạo dữ liệu lâm sàng ở người, vì dữ liệu lâm sàng như vậy sẽ góp phần đẩy nhanh việc phê duyệt vắc xin trong LMIC.
Dự kiến rằng, WHO sẽ làm việc với các nhà tài trợ và các nhà quyên góp để huy động hỗ trợ tài chính để thành lập các cơ sở khi chúng đang được thành lập, để hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các nhà sản xuất được lựa chọn trong LMIC, có tính đến nhu cầu thiết lập năng lực sản xuất vắc xin vĩnh viễn ở những vùng mà hiện hầu như đang thiếu.
Mục tiêu lớn hơn này sẽ đảm bảo rằng tất cả các khu vực của WHO sẽ có thể sản xuất vắc xin như các biện pháp chuẩn bị thiết yếu chống lại các mối đe dọa truyền nhiễm trong tương lai.
Để hỗ trợ hoạt động này, WHO đang tìm kiếm các ý tưởng quan tâm từ: Các nhà sản xuất sản phẩm y tế (thuốc, vắc xin hoặc dược chất) quy mô nhỏ/vừa, tốt nhất là trong LMIC, có thể lưu trữ trung tâm mRNA COVID-19 và lắp ráp công nghệ theo lô thử nghiệm cấp thực hành sản xuất tốt để thử nghiệm lâm sang, Chuyển giao bí quyết và công nghệ thích hợp cho các nhà sản xuất hiện tại hoặc mới trong LMIC để cho phép họ phát triển và sản xuất vắc xin COVID-19 mRNA; Chủ sở hữu (khu vực công hoặc tư nhân) của công nghệ và/hoặc quyền sở hữu tài sản trí tuệ- đây có thể là các tổ chức học thuật, công ty dược phẩm, tổ chức phi chính phủ hoặc bất kỳ thực thể nào khác sẵn sàng đóng góp những điều này cho trung tâm chuyển giao công nghệ, dưới sự bảo trợ của WHO, để cho phép sản xuất vắc xin COVID-19 mRNA trong LMIC.
Để thể hiện sự quan tâm ban đầu này, các thực thể sẵn sàng được coi là cơ sở chuyển giao công nghệ (như mô tả ngắn gọn ở mục(1)) hoặc có thể cung cấp bí quyết cần thiết, đào tạo quy trình và quyền sở hữu trí tuệ (như mô tả ngắn gọn ở trong mục(2)), được mời cung cấp bản tóm tắt ngắn gọn về năng lực và sự quan tâm của họ trong việc tham gia thành lập cơ sở chuyển giao công nghệ vắc xin COVID-19 tới Martin Friede (Friedem@who.int) và Raj Long (rlong@who.int).
WHO sẽ đưa ra lời kêu gọi quan tâm từ các nhà sản xuất tại các nước có thu nhập thấp và trung bình (LMIC) muốn tiếp nhận công nghệ do các cơ sở chuyển giao công nghệ phát triển trong những tuần tới. Ưu tiên cho các nhà sản xuất thuốc, vắc xin hoặc dược chất có trụ sở tại LMIC và có khả năng sản xuất các sản phẩm y tế trên quy mô lớn theo tiêu chuẩn Thực hành Sản xuất Tốt (GMP). Một yếu tố quan trọng khác được xem xét sẽ là triển vọng về tính bền vững và kinh nghiệm đối với vòng sơ tuyển của WHO.
————–
(1) Các cơ sở chuyển giao công nghệ đã được WHO hỗ trợ trước đây để cho phép phát triển và chuyển giao thành công các quy trình sản xuất tá dược và sản xuất vắc xin cúm
(2) Lý do tại sao WHO quyết định tiến hành ngay lập tức vắc xin mRNA là như sau:
– Chúng đã được chứng minh là cực kỳ hiệu quả trong việc bảo vệ chống lại COVID-19 và khả năng bảo vệ được duy trì ở mức độ lớn đối với các biến thể;
– Công nghệ này rất linh hoạt và cho phép vắc xin thích ứng tương đối nhanh với các biến thể, (nếu cần);
– Chúng có thể được sản xuất bởi các nhà sản xuất thuốc và hoạt chất y tế ngoài vắc xin;
– Nhiều tính năng kỹ thuật được miễn phí quyền sở hữu trí tuệ ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế liên kết nguồn tin và dịch từ Cổng thông tin điện tử của Tổ chức Y tế thế giới WHO.
(Nguồn: ista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/thanh-lap-co-so-chuyen-giao-cong-nghe-vac-xin-covid-19-mrna-de-mo-rong-quy-mo-san-xuat-toan-cau-3617.html)
VẮC XIN COVID-19 CỦA HOA KỲ CÓ HIỆU QUẢ CHỐNG LẠI BIẾN THỂ COVID-19 Ở ẤN ĐỘ
Cập nhật: ngày 01/6/2021
Kết quả của một nghiên cứu cho thấy cả vắc xin Pfizer-BioNTech và Moderna vẫn có hiệu quả chống lại các biến thể lần đầu tiên được phát hiện ở Ấn Độ.
Các loại vắc xin coronavirus được cho phép sử dụng tại Hoa Kỳ có hiệu quả trong việc chống lại chủng vi rút hiện đang tàn phá Ấn Độ, chuyên gia về các bệnh truyền nhiễm của Hoa Kỳ, Anthony Fauci (một bác sĩ và nhà miễn dịch học người Mỹ, từng là Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ), nói trong một cuộc họp ngắn tại Nhà Trắng hôm 18/5/2021.
Ông Anthony Fauci nói: “Các nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng vắc-xin Pfizer-BioNTech và Moderna giúp bảo vệ chống lại bệnh tật nghiêm trọng, nhập viện và tử vong, điều này cho thấy lý do rất quan trọng khiến chúng ta nên tiêm chủng“.
Trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã xem xét hiệu quả của vắc xin Pfizer và Moderna đối với các biến thể được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ. Các phát hiện, đã được báo cáo trong một bài báo trên biorxiv.org và vẫn chưa được đánh giá ngang hàng, cho thấy cả hai loại vắc xin vẫn còn hiệu quả. Các nhà nghiên cứu cho biết: “Có một lý do chính đáng để tin rằng các cá thể được tiêm chủng sẽ vẫn được bảo vệ chống lại các biến thể B.1.617 và B.1.618”.
Các chuyên gia y tế công cộng cho rằng biến thể B.1.617 có khả năng dẫn đến sự gia tăng đột biến số lượng lớn các ca nhiễm, nhập viện và tử vong ở Ấn Độ, theo báo cáo của The Hill hôm 18/5/2021. Chủng đó cũng có liên quan đến việc gia tăng các trường hợp mắc bệnh ở khắp các khu vực của châu Âu và Tổ chức Y tế Thế giới gần đây đã phân loại lại nó là một “biến thể cần quan tâm” – một dấu hiệu cho thấy biến thể này có “tác động sức khỏe cộng đồng cao nhất“.
Hôm 17/5/2021, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã báo cáo 17.724 ca nhiễm COVID-19 mới, con số ca mắc hàng ngày thấp nhất kể từ tháng 6 tại quốc gia này.
Giám đốc CDC, Rochelle Walensky, cho biết 60% người từ 18 tuổi trở lên đã được tiêm ít nhất một liều vắc-xin coronavirus. Ngoài ra, hơn 4,1 triệu thanh thiếu niên từ 12 đến 17 tuổi đã được tiêm liều đầu tiên kể từ khi vắc-xin Pfizer-BioNTech được cấp phép sử dụng cho nhóm tuổi đó.
P.A.T (NASATI), nguồn: Xinhua, 19/5/2021
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/vac-xin-covid-19-cua-hoa-ky-co-hieu-qua-chong-lai-bien-the-covid-19-o-an-do-3581.html)
PHÂN BIỆT COVID-19, CÚM, CẢM LẠNH
Các triệu chứng bệnh do covid-19 gây ra giống với các biểu hiện của cảm lạnh hoặc bệnh cúm thông thường, người bệnh không phát hiện chính xác tình trạng bệnh khiến tình hình trở nên nghiêm trọng và ngoài tầm kiểm soát. Vì vậy, cần nhận biết, phân biệt một số triệu chứng Covid và các bệnh cúm thông thường.
Nguồn: https://benhvienchuthapxanh.vn/phan-biet-covid-19-cam-lanh-cam-cum-n310.html