XU HƯỚNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO NĂM 2023
Cập nhật: ngày 21/3/2023
Theo GlobalData, ngành trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ đạt giá trị 93 tỉ USD trong năm 2023, tăng 12% so với năm 2022. AI là một trong những công nghệ mới nổi được mong đợi nhất vì nó có khả năng tăng tốc và tăng cường đáng kể các công nghệ khác bao gồm robot, điện toán lượng tử và IoT.
Nhiều chuyên gia dự đoán, AI sẽ tiếp tục phát triển nhảy vọt trong năm nay, mang lại ngày càng nhiều hơn cơ hội cho cả người tiêu dùng và doanh nghiệp. Trong đó, trọng tâm của AI là nâng cao năng suất lao động, khi các công cụ mới có sẵn cho phép lực lượng lao động tận dụng công nghệ này. Năm 2023 được kỳ vọng sẽ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết của AI. Nó có khả năng tạo ra các hệ thống đàm thoại được cá nhân hóa cho khách hàng trong tất cả các ngành nghề. AI cũng cung cấp cho các chuyên gia những hiểu biết tài chính cần thiết để có thể hỗ trợ khách hàng tốt hơn theo nhiều cách khác nhau. Ngoài ra, AI sẽ mang lại cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp nhỏ thông qua việc thúc đẩy tương tác với khách hàng và hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng.
Trong năm 2023, AI sẽ trở thành hiện thực trong các tổ chức. AI không cần mã, với giao diện kéo và thả dễ dàng, sẽ cho phép mọi doanh nghiệp tận dụng sức mạnh của nó để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông minh hơn. Thị trường bán lẻ là một minh chứng. Stitch Fix sử dụng các thuật toán hỗ trợ AI để giới thiệu quần áo phù hợp với kích cỡ và sở thích của họ cho khách hàng. Đồng thời, mua sắm và giao hàng tự động, không tiếp xúc cũng sẽ là một xu hướng lớn cho năm 2023. AI sẽ giúp người tiêu dùng thanh toán, nhận hàng hóa và dịch vụ dễ dàng hơn. Ngoài ra, AI cũng sẽ tăng cường gần như mọi công việc trong mọi quy trình kinh doanh trong các ngành công nghiệp. Nhiều nhà bán lẻ sẽ sử dụng AI để quản lý và tự động hóa các quy trình quản lý hàng tồn kho phức tạp, vì vậy các xu hướng tiện lợi sẽ ra đời. AI cũng sẽ là động cơ đằng sau các sáng kiến giao hàng tự động mới nhất mà các nhà bán lẻ đang thử nghiệm và triển khai. Ngày càng nhiều nhân viên bán lẻ sẽ cần làm quen với cách làm việc cùng với máy móc để tối ưu hóa trong công việc.
Kể từ khi ra mắt hồi cuối tháng 11 năm ngoái, ChatGPT – chatbot được hỗ trợ bởi AI do OpenAI phát triển đã trở thành một hiện tượng thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của người dùng trên khắp thế giới. Công cụ này đặc biệt gây ấn tượng với các chuyên gia về khả năng sáng tạo nội dung, thực hiện các nhiệm vụ phức tạp nhưng lại dễ sử dụng. Năm 2023, ChatGPT sẽ không ngừng mở rộng và hoàn thiện với số lượng người dùng sẽ vượt mọi kỷ lục của các ứng dụng có đăng ký.
Gartner trước đây đã đánh giá AI là một công nghệ chiến lược, nhưng năm nay chứng kiến một xu hướng mới: các hệ thống AI thích ứng (adaptive AI) liên tục đào tạo lại các mô hình thông minh của chúng. Các module này có thể học trong thời gian vận hành và các môi trường phát triển ứng dụng dựa trên dữ liệu mới và do đó thích ứng nhanh chóng với các tình huống thực tế không lường trước được. Các ứng dụng AI sử dụng phản hồi theo thời gian thực để thay đổi quá trình học của của các ứng dụng một cách linh hoạt và điều chỉnh các mục tiêu.
Cũng liên quan đến AI, Gartner cho biết nhiều tổ chức chưa chuẩn bị tốt để quản lý rủi ro AI. Trong năm 2023, các tổ chức sẽ phải triển khai các khả năng mới để đảm bảo độ tin cậy của mô hình, tính bảo mật và bảo vệ dữ liệu của các mô hình AI của họ bằng cách áp dụng quản lý độ tin cậy, rủi ro và bảo mật của AI. Điều này đòi hỏi sự tham gia của các đơn vị kinh doanh khác nhau cùng phối hợp thực hiện các biện pháp mới. Một cuộc khảo sát của Gartner ở Hoa Kỳ, Anh và Đức cho thấy 41% tổ chức đã gặp phải sự cố bảo mật hoặc vi phạm quyền riêng tư của AI. Tuy nhiên, cũng theo cuộc khảo sát đó, các tổ chức tích cực quản lý rủi ro, quyền riêng tư và bảo mật của AI đã đạt được kết quả tích cực. Nhiều dự án AI của các tổ chức đó chuyển từ bằng chứng khái niệm (proof-of-concept) sang sản xuất và chúng đạt được nhiều giá trị kinh doanh hơn so với các dự án AI trong các tổ chức không chủ động quản lý các chức năng này.
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/xu-huong-tri-tue-nhan-tao-nam-2023-6322.html)
PHẦN MỀM CẬP NHẬT VÀ CHIP NHỎ BIẾN ĐỔI ĐIỆN THOẠI THÀNH ĐẦU ĐỌC RFID ĐẦY ĐỦ
Cập nhật: ngày 08/3/2023
Thẻ RFID không dây cung cấp nhiều thông tin về sản phẩm hoặc các mặt hàng khác, nhưng chỉ đọc được nhờ các thiết bị di động chuyên dụng. Tuy nhiên, điều đó sẽ sớm thay đổi vì chip tích hợp thẻ và phần mềm cập nhật cho phép điện thoại thông minh thực hiện công việc đó hàng ngày.
Thẻ RFID (nhận dạng tần số vô tuyến) thụ động thông dụng không cần đến pin và được cung cấp năng lượng tạm thời bằng sóng vô tuyến phát ra từ đầu đọc RFID cầm tay. Sau đó, thẻ RFID sử dụng ăng-ten tích hợp nhỏ để truyền tín hiệu vô tuyến trở lại thiết bị đó. Tín hiệu đó chứa thông tin về sản phẩm được gắn thẻ.
Mới đây, nhóm nghiên cứu tại Đại học California San Diego, Hoa Kỳ đã tích hợp chức năng này vào điện thoại thông minh với giải pháp là sử dụng chip nhỏ rẻ tiền trong thẻ RFID và phần mềm cập nhật đơn giản cho điện thoại.
Khi điện thoại thông minh nằm cách chip 1m, tín hiệu LTE của điện thoại sẽ cung cấp năng lượng cho chip. Đồng thời, điện thoại sẽ gửi tín hiệu Bluetooth truy vấn tới chip, chip sẽ phản hồi bằng cách truyền tín hiệu Wi-Fi trở lại điện thoại. Tín hiệu Wi-Fi đó có thể chứa thông tin như ngày hết hạn của các mặt hàng dễ hỏng, thành phần của sản phẩm hoặc hướng dẫn sử dụng.
Chip có kích thước 3,2 cm2 và chi phí sản xuất mất vài xu. Phần mềm cập nhật chỉ đơn giản chuyển đổi tín hiệu Bluetooth đi của điện thoại sang định dạng mà chip có thể dễ dàng chuyển đổi thành phản hồi Wi-Fi. Các nhà khoa học hy vọng sẽ thương mại hóa công nghệ thông qua một công ty spinofff hoặc đối tác công nghiệp hiện có.
Các thành viên của nghiên cứu bao gồm Patrick Mercier, Dinesh Bharadia, Shih-Jai Kuo và Manideep Dunna thuộc Đại học California San Diego, Hoa Kỳ
N.P.D (NASATI), https://newatlas.com/electronics/chip-software-update-smartphones-rfid-readers/, 22/2/2023
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/phan-mem-cap-nhat-va-chip-nho-bien-doi-dien-thoai-thanh-dau-doc-rfid-day-du-6256.html)
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ CHATGPT
Cập nhật: ngày 22/2/2023
Kể từ khi ra mắt hồi cuối tháng 11 năm ngoái, ChatGPT – chatbot được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo (AI) do OpenAI phát triển đã trở thành một hiện tượng thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của người dùng trên khắp thế giới. Theo thống kê của Công ty phân tích Similar Web, khoảng 13 triệu người dùng đã sử dụng ChatGPT mỗi ngày trong tháng 1/2023, nhiều hơn gấp đôi so với mức trong tháng 12. Số người dùng ChatGPT được cho là cán mốc 100 triệu người/tháng chỉ 2 tháng sau khi được ra mắt, khiến đây trở thành ứng dụng cho người dùng phát triển nhanh nhất trong lịch sử.
ChatGPT, viết tắt của Chat Generative Pre-training Transformer, là một chatbot do công ty OpenAI – một công ty khởi nghiệp về trí tuệ nhân tạo có trụ sở tại San Francisco của Mỹ phát triển và ra mắt vào tháng 11/2022. ChatGPT được xây dựng dựa trên GPT-3.5 – một dòng mô hình ngôn ngữ lớn của OpenAI đồng thời được tinh chỉnh bằng cả hai kỹ thuật học tăng cường lẫn học có giám sát. ChatGPT nhanh chóng thu hút sự chú ý nhờ việc nó có thể hồi đáp chi tiết và trả lời lưu loát trên nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau. Độ chính xác không đồng đều về dữ kiện thực tế của nó được xác định là mặt hạn chế đáng kể.
Đến ngày 4/12/2022, OpenAI ước tính ChatGPT đã có hơn một triệu người dùng. Tính đến 31/1/2023, ứng đã đạt 100 triệu người dùng chỉ sau 2 tháng ra mắt. Thống kê của Sensor Tower cho thấy nền tảng video ngắn TikTok cần 9 tháng sau khi phát hành toàn cầu để đạt 100 triệu người dùng, trong khi Instagram mất tới 2,5 năm, còn ứng dụng dịch Google Translate là 6,5 năm. ChatGPT đã trở thành ứng dụng tiêu dùng phát triển nhanh nhất trong lịch sử.
ChatGPT hoạt động như thế nào?
Mô hình ChatGPT được đào tạo bằng kỹ thuật máy học có tên là ‘Học tăng cường từ phản hồi của con người’ (Reinforcement Learning from Human Feedback – RLHF). Hệ thống này được thiết kế để cung cấp thông tin và trả lời các câu hỏi thông qua giao diện đàm thoại.
ChatGPT được tinh chỉnh dựa trên GPT-3.5 bằng cách sử dụng phương pháp học có giám sát cùng với phương pháp học tăng cường. Cả hai phương pháp đó đều sử dụng huấn luyện viên là con người để cải thiện hiệu suất của mô hình. Trong trường hợp học có giám sát (supervised learning), mô hình này được cung cấp các hội thoại trong đó huấn luyện viên đóng vai trò làm cả hai bên: người dùng và trợ lý AI. Trong bước tăng cường (reinforcement), đầu tiên ‘huấn luyện viên con người’ xếp hạng các phản hồi mà mô hình này đã tạo ra trong mấy hội thoại trước đó. Các xếp hạng này được sử dụng để tạo ra ‘mô hình phần thưởng’, rồi từ đó mô hình đấy được tinh chỉnh thêm nữa bằng cách sử dụng Proximal Policy Optimization (PPO, Tối ưu hóa chính sách cận tính), lặp đi lặp lại mấy lần quá trình này. ChatGPT có thể “mô phỏng đối thoại, trả lời các câu hỏi theo mạch, thừa nhận sai lầm, phản đối các cơ sở không chính xác và từ chối các yêu cầu không phù hợp”.
Tính năng và những hạn chế của ChatGPT
So với bản tiền nhiệm của nó, InstructGPT, ChatGPT cố gắng giảm các hồi đáp có hại và lường gạt lại. Để ngăn ngừa việc xúc phạm được trình ra và tạo ra từ ChatGPT, các truy vấn đều được lọc thông qua một API thẩm hạch (moderation), và những prompt có tiềm tàng nội dung kỳ thị chủng tộc hay giới tính thì sẽ bị gạt bỏ đi.
Tuy nhiên, ChatGPT vẫn còn nhiều hạn chế. Mô hình phần thưởng của ChatGPT, được thiết kế dựa trên sự giám sát của con người, có thể bị tối ưu hóa quá mức và do đó cản trở hiệu suất, còn được gọi là định luật Goodhart. Hơn nữa, ChatGPT không biết gì nhiều về các sự kiện xảy ra sau năm 2021. Trong huấn luyện, người đánh giá lại ưa những câu trả lời dài hơn nữa, bất chấp mức độ lĩnh hội thực tế hay nội dung có đúng với thực kiện không. Dữ liệu huấn luyện cũng có thể bị thiên kiến thuật toán…
Khi ChatGPT ra đời, nhiều người đã có suy đoán rằng các nghề phụ thuộc vào sản xuất nội dung như: Nhà viết kịch và giáo sư đến lập trình viên và nhà báo có thể trở nên lỗi thời và có thể bị thay thế. Trong những ngày đầu sau khi ChatGPT ra mắt thị trường, một vài nhà nghiên cứu học thuật đã thử kiểm tra mô hình này bằng những bài kiểm tra kiến thức. Họ sẽ cho điểm tối đa nếu bài viết mà ChatGPT đưa ra được làm bởi một sinh viên chưa tốt nghiệp. Các lập trình viên cũng sử dụng công cụ này để giải quyết các lỗi lập trình chỉ trong một tích tắc.
Khả năng tạo văn bản giống như con người cũng khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu ChatGPT có thể thay thế các nhà báo hay không? Tuy nhiên, ở giai đoạn hiện tại, các chuyên gia cho rằng ChatGPT vẫn thiếu các sắc thái diễn đạt cũng như kỹ năng tư duy phản biện hoặc khả năng ra các quyết định về đạo đức.
Về nguồn dữ liệu, phiên bản ChatGPT hiện tại được huấn luyện dựa trên kho dữ liệu khổng lồ có từ năm 2021 trở về trước, nên không thể cung cấp thông tin mới nhất, khiến một số truy vấn và tìm kiếm trở nên vô ích. Thậm chí, ChatGPT cũng có thể đưa ra câu trả lời hoàn toàn sai, đôi khi là những “câu trả lời nghe có vẻ hợp lý nhưng không chính xác hoặc vô nghĩa”, như chính công ty OpenAI từng thừa nhận. Đây là vấn đề mà OpenAI coi là khó khắc phục.
Ngay sau khi chatbot này ra mắt, nhiều người đã so sánh nó với công cụ tìm kiếm của Google (Google Search). ChatGPT tự tổng hợp câu trả lời hoàn chỉnh từ quá trình huấn luyện, do đó nó giúp người dùng rút ngắn thời gian khi cần ngay thông tin trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, chatbot AI này kém Google Search về khả năng cập nhật (vốn quét Internet để tìm dữ liệu theo thời gian thực) và kiểm chứng thông tin (trích xuất nguồn thông tin theo các đường link). Theo nhận định của CNBC, ở giai đoạn này, kết quả từ Google vẫn đáng tin cậy nhờ nhiều năm kinh nghiệm trong việc phát triển công cụ tìm kiếm cũng như nguồn tài chính khổng lồ để đầu tư cho công nghệ.
ChatGPT có thể dùng để làm gì?
Một số người dùng ban đầu đã mô tả mô hình này như một giải pháp thay thế cho Google vì có khả năng cung cấp các mô tả, câu trả lời và giải pháp cho các câu hỏi phức tạp bao gồm cách viết code và giải quyết các vấn đề về bố cục cũng như truy vấn tối ưu hóa. ChatGPT có thể được sử dụng trong các lĩnh vực như sáng tạo nội dung cho các trang web, trả lời các câu hỏi của khách hàng, cung cấp các gợi ý, tạo chatbot tự động, phát hiện hoặc thậm chí là sửa các lỗi lập trình. Công cụ này đặc biệt gây ấn tượng với các chuyên gia về khả năng sáng tạo nội dung, thực hiện các nhiệm vụ phức tạp nhưng lại dễ sử dụng.
Hiện ChatGPT vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, người dùng có thể đăng ký dùng thử miễn phí. Sau đó, họ sẽ phải trả tiền để sử dụng một số tính năng đặc biệt. Cụ thể vào cuối tháng 1/2023, OpenAI đã tung ra gói đăng ký 20 USD/tháng với dịch vụ ổn định và nhanh hơn kèm với cơ hội dùng thử các tính năng mới. ChatGPT chỉ có thể truy cập thông qua trang web của OpenAI và không có ứng dụng trên điện thoại. Vì vậy, người dùng cần lưu ý để không tải về các ứng dụng mạo danh có nguy cơ chứa phần mềm độc hại.
ChatGPT có đe dọa nhiều ngành, nghề?
Năm 2016, phần mềm AlphaGo đã đánh bại đại kiện tướng cờ vây hàng đầu thế giới người Hàn Quốc Lee Sedol với một tỷ số hết sức thuyết phục: 4-1. Năm 2019, AI còn tiến thêm một bước xa hơn nữa khi phần mềm Pluribus được các nhà nghiên cứu ở Mỹ phát triển đã lần đầu đánh bại được những vận động viên poker hàng đầu thế giới trong một trò chơi 6 người (vốn dĩ phức tạp hơn nhiều những trò thi đấu tay đôi như cờ vây hay cờ vua). Năm 2021, công ty OpenAI tung ra phần mềm Dall-E, lần đầu tiên cho phép con người sáng tạo ra những bức họa từ những dòng lệnh bằng chữ như “Hãy vẽ cho tôi một con mèo lên sao Hỏa theo phong cách tranh Van Gogh“. Cuối năm 2022, đầu năm 2023, tới lượt ChatGPT ra đời đặt ra câu hỏi về việc con người có cần phải thay đổi tư duy, cách thức làm việc hay không? Nhìn nhận ảnh hưởng của ChatGPT nói riêng, AI nói chung đối với các ngành, nghề hiện nay, nhiều chuyên gia cho rằng: Đây là tiếng chuông cảnh báo cho “những người đang cảm thấy an toàn và bằng lòng với công việc hiện tại”.
Các chuyên gia đưa ra dự báo về 10 công việc có nguy cơ bị thay thế cao nhất bởi những công cụ AI như ChatGPT: Việc làm ngành IT (Người viết mã, lập trình viên, kỹ sư phần mềm, nhà phân tích dữ liệu); Công việc truyền thông (quảng cáo, sáng tạo nội dung, báo chí); Công việc ngành luật (trợ lý luật sư, trợ lý pháp lý); Nhân viên nghiên cứu thị trường; Giáo viên; Công việc ngành tài chính (Chuyên viên phân tích tài chính, cố vấn tài chính cá nhân).
Theo một số chuyên gia, sự xuất hiện của ChatGPT cho thấy về lâu dài hơn, khi tập mẫu đủ lớn, AI sẽ dần dần đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong công tác vận hành hệ thống cũng như tiếp cận với người dùng cuối. Qua thời gian, AI với quá trình tự học hỏi sẽ hiểu khách hàng hơn, không bị áp đặt cảm xúc khi tiếp xúc, hiệu suất làm việc lớn hơn bất kể ngày đêm. Với điều kiện tập mẫu khách hàng đủ lớn, AI sẽ chứng minh được lợi thế. Trong trường hợp này, một số ngành như bán hàng từ xa, chăm sóc khách hàng sẽ bị đánh bại đầu tiên. AI sẽ làm việc hiệu quả trên diện rộng mà không cần mất công đào tạo từng nhân sự như hiện nay.
Trong lĩnh vực xuất bản, truyền thông, ChatGPT khó có thể thay thế được các nhà báo chuyên nghiệp bởi đây chỉ là một mô hình ngôn ngữ được huấn luyện. Có nghĩa là, ChatGPT sẽ chỉ tổng hợp được thông tin từ các dữ liệu có sẵn. Trong khi đó, báo chí thì luôn cần những chủ đề mới, những đề tài mới, góc nhìn mới. Những điều này, chỉ có các phóng viên trong thực tế mới làm được. Tuy nhiên, các phóng viên, nhà báo nói riêng, người dùng nói chung có thể tận dụng ChatGPT để nâng cao hiệu quả công việc của mình. ChatGPT có thể giúp tóm tắt các văn bản, tài liệu dài; tạo câu hỏi và trả lời các câu hỏi, qua đó giúp người dùng tìm kiếm góc nhìn mới, hay ‘thử’ tiến hành nghiên cứu về sự kiện, nhân vật… Ngoài ra, ChatGPT cũng sẽ hỗ trợ dịch bài viết sang các ngôn ngữ khác nhau.
Sẽ luôn có những lĩnh vực mà AI sẽ không thể thay thế con người, đặc biệt là trong những bối cảnh đòi hỏi sự quyết định dựa trên đạo đức. AI được con người dạy, còn con người sẽ làm việc và quyết định dựa cả vào cảm xúc. AI có thể vẽ tranh, làm thơ, sáng tác nhạc, nhưng chưa thể chạm tới cảm xúc.
Lo ngại về mặt đạo đức
Tương tự nhiều phần mềm AI khác, ChatGPT cũng vấp phải nhiều ý kiến trái chiều sau khi ra mắt. Lo ngại về mặt đạo đức là vấn đề chung của nhiều chuyên gia đề cập khi nhắc đến ứng dụng chatbot của OpenAI. Theo đó, công nghệ AI có thể khiến kéo dài các thành kiến xã hội như phân biệt chủng tộc, giới tính và văn hóa… Google và Amazon trước đây đã thừa nhận rằng một số dự án thử nghiệm với AI của họ là rắc rối về mặt đạo đức và có những hạn chế. Tại một số công ty, con người đã phải can thiệp và khắc phục sự tàn phá về mặt đạo đức của AI. Các chuyên gia cho rằng, một nguồn tạo ra thông tin cũng có thể tạo ra thông tin sai lệch. Máy móc được lập trình bởi con người và có thể trở thành phương tiện phản ánh những định kiến của họ.
ChatGPT thậm chí có thể tạo điều kiện khiến nạn phát tán tin giả trở nên trầm trọng hơn. Người ta có thể yêu cầu nó tạo ra một thuyết âm mưu về Covid-19 chẳng hạn, và nó có thể làm điều đó khá tốt. Chatbot khiến việc phát tán tin giả trở nên dễ dàng hơn và với chi phí thấp hơn. Nó được thiết kế nghe có vẻ giống như một sinh vật biết suy nghĩ, nhưng nó chỉ đơn giản là suy luận thống kê, và không có bất kỳ sự hiểu biết nào.
ChatGPT rất ấn tượng, nhưng nó đặt ra nhiều mối lo ngại về mặt đạo đức. ChatGPT cho phép bất cứ học sinh nào cũng có thể tạo ra một bài luận đạt yêu cầu một cách miễn phí chỉ trong vài giây, và đây là vấn đề mà các chuyên gia giáo dục cho là cần phải được nghiêm túc nhìn nhận lại. Với khả năng tạo ra các đoạn văn, bài thơ, bài tiểu luận khá mạch lạc chỉ trong thời gian ngắn, ChatGPT gây nên mối lo ngại về đạo văn hay gian lận trong học tập. Để ngăn chặn tình trạng này, mới đây, Sciences Po, một trong những trường đại học hàng đầu nước Pháp đã cấm sinh viên sử dụng ChatGPT cũng như các phần mềm trí tuệ nhân tạo khác. Không chỉ ở Pháp, ChatGPT cũng bị cấm ở một số trường công lập tại thành phố New York và Seattle (Mỹ). Nhiều trường đại học của Mỹ đã công bố kế hoạch giao ít bài đánh giá mang về nhà hơn, thay vào đó là thực hiện nhiều hơn các bài tiểu luận viết tay và bài kiểm tra vấn đáp.
P.A.T (Tổng hợp)
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/xu-huong-nghien-cuu-cong-nghe/nhung-dieu-can-biet-ve-chatgpt-6138.html)
MỘT SỐ XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG DOANH NGHIỆP
Cập nhật: ngày 25/11/2022
Quá trình chuyển đổi số/số hóa doanh nghiệp tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây và có sự chênh lệch giữa các quốc gia. Một cuộc thăm dò mới đây của OECD về chuyển đổi số trong doanh nghiệp, dựa trên tỷ lệ lao động sử dụng máy tính có kết nối Internet, đã cung cấp một số thông tin chi tiết về mức độ và tốc độ chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh.
Tỷ lệ lao động ở các nước OECD sử dụng máy tính có kết nối Internet, đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Năm 2019, tỷ lệ này đạt mức trung bình 52%, tăng từ 41% năm 2009. Tuy nhiên, giữa các quốc gia lại có sự chênh lệch lớn, ví dụ, ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có 24,8% trong khi Thụy Điển lại là 81,7% (2019). Các doanh nghiệp lớn và nhỏ đều tích cực trang bị nhiều máy tính kết nối Internet cho người lao động, nhưng các doanh nghiệp nhỏ vẫn kém hơn. Tại các nước OECD, kể từ năm 2009, tính trung bình, tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp có từ 10-49 người sử dụng máy tính kết nối Internet, tăng chậm hơn so với các doanh nghiệp khác.
Tất cả các ngành đều đang cung cấp cho người lao động máy tính kết nối Internet, trong đó, một số ngành vượt trội hơn. Trong các dịch vụ cần ứng dụng nhiều kỹ thuật số, việc triển khai sử dụng máy tính kết nối Internet gần như đã hoàn tất. Năm 2019, trung bình 93,6% người làm dịch vụ thông tin và truyền thông và 88,6% người làm dịch vụ chuyên môn, khoa học và kỹ thuật đều sử dụng máy tính kết nối Internet. Dù có nhiều tiến bộ ổn định trong thập kỷ, nhưng vẫn còn các lĩnh vực ít được số hóa như dịch vụ hành chính và hỗ trợ (trung bình 36,2%) và dịch vụ ăn uống và lưu trú (31,8%). Tuy nhiên, việc sử dụng máy tính có Internet đã gia tăng trong các dịch vụ xây dựng (trung bình 45,9%), vận tải và lưu trữ (51,1%), và bán buôn (70,6%) và bán lẻ (70,3%).
Số hóa liên quan đến việc ứng dụng nhiều loại công nghệ cho các mục đích khác nhau, từ cho phép tiếp cận nhiều hơn với thị trường và người dùng cuối, đến việc tích hợp mạnh mẽ các quy trình kinh doanh hoặc nâng cao năng lực công nghệ thông tin của doanh nghiệp… Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và hoạch định chiến lược của bộ phận hành chính. Hệ thống này là công cụ phần mềm dùng để quản lý và tích hợp các luồng thông tin nội bộ và bên ngoài, từ nguồn lực vật chất và nhân lực đến tài chính, kế toán và bán hàng, cũng như tự động hóa việc lập kế hoạch, kiểm kê, mua hàng và các chức năng kinh doanh khác.
Công nghệ nhận dạng tần số vô tuyến đang làm tăng hiệu quả sản xuất và logistics. Công nghệ này cho phép giao tiếp trường gần, được ứng dụng để: nhận dạng sản phẩm, nhận diện con người hoặc kiểm soát truy cập; giám sát và kiểm soát sản xuất công nghiệp, chuỗi cung ứng và truy vết hàng tồn kho; quản lý thông tin dịch vụ và bảo trì hoặc cho các ứng dụng thanh toán (như phí cầu đường cao tốc, vận tải hành khách). Phần mềm quản lý quan hệ khách hàng và quản lý chuỗi cung ứng giúp tăng cường tích hợp bộ phận mũi nhọn của doanh nghiệp và các hoạt động của chuỗi cung ứng. Phần mềm này được sử dụng để quản lý các tương tác của doanh nghiệp với khách hàng, người lao động và nhà cung cấp.
Ngoài ra, điện toán đám mây cũng được sự dụng nhiều hơn giúp nâng cao năng lực của các hệ thống công nghệ thông tin. Điện toán đám mây tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận trực tuyến năng lực xử lý hoặc dung lượng lưu trữ bổ sung, cũng như cơ sở dữ liệu và phần mềm, với số lượng phù hợp và theo nhu cầu. Ngoài tính linh hoạt và khả năng mở rộng, điện toán đám mây còn giảm chi phí nâng cấp công nghệ vì doanh nghiệp không cần bỏ ra các khoản đầu tư trả trước cho phần cứng và chi phí bảo trì thường xuyên.
Xu hướng gần đây cũng cho thấy phân tích dữ liệu lớn được ứng dụng nhiều trong doanh nghiệp để hỗ trợ tăng hiệu quả của quá trình ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược, quản trị chung, sản xuất, tiền sản xuất và logistics hoặc tiếp thị, quảng cáo và thương mại hóa. Phân tích dữ liệu đề cập đến việc sử dụng các kỹ thuật, công nghệ và công cụ phần mềm để phân tích khối lượng lớn dữ liệu bắt nguồn từ các hoạt động được thực hiện bằng phương thức điện tử và thông qua giao tiếp giữa máy với máy. Mạng xã hội giúp tăng cường nền tảng khách hàng của doanh nghiệp, mở rộng tầm nhìn trong kinh doanh và quảng bá. Mạng xã hội chủ yếu được sử dụng cho các tương tác bên ngoài, bao gồm phát triển hình ảnh và sản phẩm tiếp thị của doanh nghiệp, cũng như thu thập hoặc phản hồi ý kiến, đánh giá và câu hỏi của khách hàng. Mạng xã hội cũng được dùng để kết nối các đối tác kinh doanh hoặc tuyển dụng lao động.
Thương mại điện tử đang giúp doanh nghiệp củng cố nền tảng khách hàng và nhà cung cấp, tiếp cận các thị trường phi truyền thống trong khu vực hoặc ở nước ngoài. Thương mại điện tử mô tả việc bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ được thực hiện qua mạng bằng các phương thức được thiết kế đặc biệt cho mục đích nhận hoặc đặt hàng (tức là các trang web, extranet (mạng nội bộ) hoặc trao đổi dữ liệu điện tử). Đặt phòng và đặt hàng trực tuyến là các hình thức bán hàng điện tử tiên tiến hơn. Thương mại điện tử diễn ra thông qua một loạt các mối quan hệ thương mại khác nhau, liên quan đến mọi kết nối giữa người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc chính phủ. Các giao dịch thương mại điện tử ngày càng có sự tham gia trực tiếp của người tiêu dùng, đặc biệt là giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Ngoài ra, các mô hình kinh doanh mới liên quan đến các mối quan hệ giữa người tiêu dùng với doanh nghiệp và quan hệ ngang hàng diễn ra giữa hai hoặc nhiều cá nhân.
Xu hướng hóa đơn điện tử đang ngày càng giúp tăng cường khả năng tích hợp của hệ thống kế toán và các quy tắc thuế, giảm bớt gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp. Lập hóa đơn điện tử hỗ trợ chuỗi thông tin an toàn giữa các doanh nghiệp và cơ quan hành chính công, đồng thời thúc đẩy triển khai các thỏa thuận đóng thuế thu nhập được khấu trừ từ doanh nghiệp và báo cáo cho cơ quan thuế.
P.A.T (NASATI), theo The Digital Transformation of SMEs, OECD 202
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/mot-so-xu-huong-chuyen-doi-so-trong-doanh-nghiep-5931.html)
CÔNG NGHỆ TRUYỀN TẢI VÀ LƯU TRỮ DỮ LIỆU
Cập nhật: ngày 18/11/2022
Dữ liệu là vô hình, nhưng không có nghĩa là chúng tồn tại độc lập mà cần hỗ trợ vật lý và được truyền qua và lưu trữ trong cơ sở hạ tầng vật lý. Dưới đây là một số công nghệ truyền tải và lưu trữ dữ liệu hiện nay.
Băng thông rộng di động 5G
Công nghệ này bắt đầu được triển khai thương mại trên mặt đất vào năm 2020. Tuy nhiên, nó chủ yếu diễn ra ở các nước phát triển và một số nước ở châu Á, đáng chú ý là Trung Quốc. Tình trạng này được dự báo sẽ tiếp tục duy trì vào năm 2025. Dự báo lưu lượng dữ liệu di động 5G sẽ vượt qua 4G và những công nghệ thấp hơn vào năm 2026. Mặc dù Bắc Mỹ và Châu Âu có tỷ trọng đăng ký di động toàn cầu trong công nghệ 5G thấp hơn, nhưng lại có tỷ trọng lớn hơn trong tiêu thụ dữ liệu toàn cầu, do mạng hiệu quả, thiết bị người dùng cao cấp và gói dữ liệu phong phú giá cả phải chăng.
Công nghệ 5G được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến trải nghiệm thiết bị di động của khách hàng về chất lượng kết nối Internet và tăng khối lượng dữ liệu. Nhìn chung, điều này sẽ thúc đẩy xu hướng hoán đổi máy tính để bàn (băng thông rộng cố định) cho các thiết bị di động, chủ yếu để mua sắm thương mại điện tử, video và chơi game. Các ứng dụng nhắn tin và mạng xã hội, đã và đang được sử dụng rộng rãi trên điện thoại thông minh, cũng sẽ được hưởng lợi từ 5G. Nó cũng sẽ ảnh hưởng đến các dịch vụ đám mây. Tất cả những điều này sẽ liên quan đến việc tăng cường truyền dữ liệu xuyên biên giới. Do khả năng xử lý dữ liệu cao, cũng như tác động kinh tế tiềm tàng của nó, 5G là yếu tố chính đằng sau xung đột thương mại/công nghệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, với Huawei, công ty hàng đầu trong lĩnh vực phát triển 5G.
Cáp ngầm dưới biển
Người ta ước tính rằng khoảng 99% lưu lượng truy cập quốc tế đi qua cáp ngầm dưới biển. Lợi thế của chúng so với các kênh khác, chẳng hạn như vệ tinh, là cáp có thể mang nhiều dữ liệu hơn với chi phí thấp hơn nhiều. Kết nối cáp ngầm cũng bao gồm các đường truyền trên mặt đất. Bản đồ truyền dẫn mặt đất tương tác của Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) lưu trữ kết nối đường trục quốc gia (cáp quang, vi sóng và các trạm vệ tinh trên Trái đất), cũng như các chỉ số quan trọng khác của lĩnh vực CNTT-TT.
Về các tuyến đường liên vùng, bản đồ cho thấy mật độ mạng lưới cáp ngầm cao nhất là ở tuyến Bắc Đại Tây Dương và các tuyến xuyên Thái Bình Dương, giữa Hoa Kỳ và Châu Âu, giữa Hoa Kỳ và Châu Á. Và mật độ kết nối nội vùng lớn nhất là ở Châu Âu, Đông Á và Nam Á. Châu Phi và Châu Mỹ Latinh cho thấy mật độ thấp hơn, cả trên các kết nối liên lục địa cũng như nội vùng; diện tích lớn ở những vùng này vẫn chưa được phục vụ.
Những người sử dụng chính băng thông quốc tế cũng là những người đầu tư nhiều nhất vào cáp ngầm. Bao gồm các nhà cung cấp nội dung như: Google, Facebook, Amazon, Microsoft, và một số nhà cung cấp dịch vụ như: Telxius, China Telecom, Telstra. Theo TeleGeography, “Không giống như những đợt bùng nổ xây dựng cáp ngầm trước đây, một số đơn vị cung cấp nội dung như Amazon, Google, Facebook, Microsoft đang đóng vai trò tích cực hơn trong sự gia tăng gần đây”. Riêng các công ty này có nhu cầu đáng kinh ngạc về lưu lượng truy cập trung tâm dữ liệu đến mức họ đang thúc đẩy một số dự án và ưu tiên tuyến đường cho cáp ngầm. Ước tính khoảng 80% tổng lưu lượng truy cập Internet liên quan đến video, mạng xã hội, dịch vụ trò chơi, ở mức độ cao được cung cấp bởi những nền tảng kỹ thuật số lớn như YouTube (Google), Netflix và Facebook.
Vệ tinh
Vệ tinh rất hữu ích trong việc tiếp cận những vùng xa xôi không có dây cáp quang. Lợi thế hoạt động; lợi thế chiến thuật; lợi thế doanh nghiệp và Chính phủ từ xa sẽ nhận được sự thúc đẩy lớn về mặt kết nối và chức năng nếu/khi thiết bị 5G trở thành hiện thực; kết nối 5G với vệ tinh sẽ mở ra một số trường hợp sử dụng quan trọng trong vận tải thương mại và quân sự; nông nghiệp; dầu; khí đốt; khai thác mỏ và các tiện ích, cũng như kết nối băng thông rộng dân cư từ xa.
Các công ty lớn, chẳng hạn như SpaceX và Amazon, đã và đang đầu tư rất nhiều vào băng thông rộng vệ tinh nhanh chóng. Họ từng có kế hoạch chi khoảng 10 tỷ USD cho băng thông rộng vệ tinh. Những công ty này tìm cách cung cấp băng thông rộng đến những nơi xa xôi và không được phục vụ, giúp đỡ nhiều trường học và một số hoạt động của Chính phủ ở nước ngoài, hoặc cung cấp truy cập Internet cho khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai hoặc xung đột. Một lý do chính khác đằng sau những khoản đầu tư này là khả năng cải thiện quyền truy cập vào dữ liệu từ số lượng người dùng Internet ngày càng tăng, và do đó tạo ra doanh thu mới. Lợi tức đầu tư tiềm năng là rất lớn. Morgan Stanley (2020) ước tính rằng “ngành công nghiệp vũ trụ toàn cầu có thể tạo ra doanh thu 1 nghìn tỷ USD trở lên vào năm 2040, tăng từ 350 tỷ USD so với hiện tại”. Tuy nhiên, những cơ hội ngắn hạn và trung hạn đáng kể nhất có thể đến từ truy cập Internet băng thông rộng vệ tinh… băng thông rộng vệ tinh sẽ đại diện cho 50% tăng trưởng dự kiến của nền kinh tế không gian toàn cầu vào năm 2040 và 70% trong kịch bản tăng giá nhất. Việc phóng các vệ tinh cung cấp dịch vụ Internet băng thông rộng sẽ giúp giảm chi phí dữ liệu, cũng như nhu cầu về dữ liệu đó bùng nổ.
Điểm trao đổi Internet
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng Internet trong nước liên quan đến dữ liệu cũng quan trọng đối với hoạt động của Internet như chất lượng kết nối và phạm vi phủ sóng của Internet, để thu hút nhiều người và công ty hơn trong nền kinh tế kỹ thuật số dựa trên dữ liệu. Điều này bao gồm các điểm trao đổi Internet (IXP) và những trung tâm dữ liệu đồng vị trí. IXP là một số vị trí vật lý nơi nhiều mạng khác nhau kết nối để trao đổi lưu lượng Internet thông qua cơ sở hạ tầng chuyển mạch chung.
Các mạng tham gia vào IXP có thể là nhà cung cấp dịch vụ Internet; nhà cung cấp nội dung; công ty lưu trữ, Chính phủ, v.v. IXP được phân tán khắp các quốc gia, cho phép những mạng cục bộ trao đổi thông tin một cách hiệu quả, vì chúng loại bỏ nhu cầu trao đổi lưu lượng Internet cục bộ ở nước ngoài. Nó đã được chứng minh rằng tốc độ truy cập cho nội dung cục bộ có thể cải thiện gấp mười lần với IXP, vì lưu lượng truy cập được định tuyến trực tiếp hơn.
Tính đến tháng 4 năm 2021 trên thế giới có 556 IXP, với số lượng cao nhất ở các nền kinh tế phát triển (293), tiếp theo là một số nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi (lần lượt là 220 và 43). Xét về số lượng IXP trung bình cho mỗi quốc gia trong các nhóm này, lần lượt có 7,9; 3,9; 2,6 IXP cho mỗi quốc gia ở những nước phát triển, đang chuyển đổi và đang phát triển. Ở cấp độ khu vực, châu Âu dẫn đầu, tiếp theo là Bắc Mỹ và châu Á, về số lượng tuyệt đối các IXP. Về khối lượng lưu lượng dữ liệu đi qua các IXP khu vực này, Châu Âu dẫn đầu, với 28% của tất cả các IXP, với 60% sản lượng băng thông nội địa toàn cầu. Điều này một phần là do có một số IXP đang hoạt động như một trung tâm liên lục địa ở châu Âu. Châu Phi chiếm 9% tổng số IXP, nhưng sản lượng băng thông nội địa của họ chỉ là 2%.
Sự hiện diện của IXP không phải lúc nào cũng đảm bảo mang lại nhiều lợi ích hơn cho khách hàng địa phương. Ví dụ, Djibouti có một IXP, hoạt động như một trung tâm khu vực, cung cấp dịch vụ cho các nước láng giềng, nhưng cấu trúc độc quyền trong lĩnh vực viễn thông của nó dẫn đến chi phí Internet không thể chi trả được (Ngân hàng Thế giới, 2021). Do đó, sự hiện diện của IXP ở một quốc gia hoặc khối lượng dữ liệu lớn hơn được trao đổi thông qua chúng không tự động chuyển thành tốc độ nhanh hơn và phí kết nối Internet thấp hơn cho người dùng địa phương. Ngược lại, một IXP toàn diện cho những đối tác trong nước, quốc tế và đa dạng, cho phép đối xử bình đẳng với tất cả những người tham gia (thường là đối thủ cạnh tranh), có thể khuyến khích việc phân cấp dữ liệu trong mạng của họ. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển thiếu cơ sở hạ tầng trong nước để cho phép dữ liệu được tạo cục bộ được trao đổi qua IXP, mặc dù việc đầu tư vào thiết bị để thiết lập IXP không tốn kém, được lưu trữ tại các trung tâm dữ liệu đồng vị trí và được xử lý trên nền tảng đám mây (Ngân hàng Thế giới, 2021).
Thị trường đám mây và trung tâm dữ liệu
Điện toán đám mây cho phép cung cấp các dịch vụ điện toán qua Internet. Bằng cách này, một số công ty có thể tiếp cận những quy trình đổi mới nhanh hơn và các nguồn lực linh hoạt, đồng thời hưởng lợi từ quy mô kinh tế, trong khi họ có thể lưu trữ dữ liệu của mình với chi phí thấp hơn nhiều. Gartner (2019) dự đoán rằng đến năm 2025, 80% doanh nghiệp sẽ đóng cửa các trung tâm dữ liệu truyền thống của họ (10% đã làm vào năm 2019) và thay vào đó chuyển sang những trung tâm cho thuê máy chủ (co-location data centres) và trung tâm dữ liệu siêu cấp.
Các trung tâm cho thuê máy chủ tập trung nhiều ở những nước phát triển. Tính đến tháng 1 năm 2021, trong tổng số 4.714 trung tâm cho thuê máy chủ, gần 80% có trụ sở tại các nước phát triển, chủ yếu ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Chỉ 897 trung tâm ở các nước đang phát triển, chủ yếu ở châu Á, và 119 ở các nền kinh tế đang chuyển đổi. Châu Phi và Châu Mỹ Latinh lần lượt có 69 và 153 trung tâm dữ liệu này. Điều đáng chú ý là mặc dù Liên minh Châu Âu (EU27) và Vương quốc Anh lần lượt có 1.105 và 273 trung tâm (so với 1.796 ở Hoa Kỳ và chỉ 154 ở Trung Quốc), nhưng Châu Âu đã không thể thu được lợi ích từ dữ liệu đến mức độ như Hoa Kỳ và Trung Quốc. Điều này cho thấy thành công trong nền kinh tế dữ liệu không chỉ là đầu tư vào trung tâm dữ liệu.
Trong trường hợp trung tâm dữ liệu lớn, vị trí dẫn đầu thuộc về Hoa Kỳ, chiếm 39% trong tổng số 597 trung tâm vào cuối năm 2020, tiếp theo là Trung Quốc với 10% và Nhật Bản 6%. Tổng số đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 2015. Amazon; Microsoft; Google cùng vận hành hơn một nửa số trung tâm dữ liệu lớn. Amazon và Google đã mở nhiều trung tâm dữ liệu mới nhất vào năm 2020, chiếm một nửa số trung tâm bổ sung (Synergy Research Group, 2021a). Nhìn chung, hai công ty đến từ Hoa Kỳ (Amazon và Microsoft) chiếm 52% tổng doanh thu từ dịch vụ cơ sở hạ tầng đám mây.
Phân tích và sử dụng dữ liệu, được hỗ trợ đặc biệt bởi những trung tâm dữ liệu, có thể rất hữu ích cho việc đạt được nhiều mục tiêu bền vững, bao gồm cả việc chống lại biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nền kinh tế kỹ thuật số, đặc biệt là các trung tâm dữ liệu, có những tác động đến môi trường cần được tính đến (xem hộp I.4). Vị trí của những trung tâm dữ liệu có thể được định hướng bởi logic môi trường (ví dụ: ở các quốc gia có khí hậu ôn hòa để tiết kiệm năng lượng làm mát cơ sở hạ tầng của họ); nhưng nó cũng dựa trên nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như độ tin cậy và chi phí sử dụng cơ sở hạ tầng năng lượng địa phương. Vị trí của những trung tâm dữ liệu là một vấn đề then chốt liên quan đến các luồng dữ liệu xuyên biên giới. Mọi yêu cầu để xác định vị trí lưu trữ dữ liệu trong một lãnh thổ cụ thể là một trong những biện pháp được sử dụng để điều chỉnh luồng dữ liệu xuyên biên giới. Sự tăng trưởng của IoT và thu hút 5G có thể đại diện cho sự tiến triển trong thị trường trung tâm dữ liệu từ ưu thế của trung tâm dữ liệu lớn đến cái gọi là “trung tâm dữ liệu biên”, vì nhu cầu truyền độ trễ dữ liệu sẽ đòi hỏi dữ liệu phải gần với nguồn hơn. Ở đó là những dấu hiệu cho thấy việc hướng tới hệ thống đa đám mây điện toán, kết hợp nhiều loại trung tâm dữ liệu khác nhau.
P.A.T (NASATI), tổng hợp
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/cong-nghe-truyen-tai-va-luu-tru-du-lieu-5747.html)
TĂNG CƯỜNG CHUYỂN ĐỔI INTERNET SANG GIAO THỨC MỚI
Cập nhật: ngày 19/9/2022
Tính đến hết tháng 6, tỷ lệ sử dụng IPv6 trên internet của Việt Nam đạt khoảng 50%, đưa nước ta đứng thứ hai trong khu vực ASEAN và thứ 10 toàn cầu. Việc chuyển đổi internet Việt Nam sang IPv6 mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng để tiến tới chuyển đổi hoàn toàn và hoạt động an toàn, ổn định vẫn còn nhiều nhiệm vụ phải thực hiện. Trong đó, các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông đóng vai trò dẫn dắt công nghệ IPv6.
IPv6 hiện được cung cấp rộng rãi tới hơn 54 triệu người dùng trên cả nước, truy cập internet qua FTTH (kết nối cáp quang trực tiếp từ nhà mạng-ISP đến hộ gia đình hoặc doanh nghiệp), 3G hoặc 4G. Thời gian đầu của kỷ nguyên internet, không gian địa chỉ 32-bit được cung cấp bằng phiên bản Internet Protocol 4 (IPv4) tưởng chừng là vô hạn vì cho phép các thiết bị có thể kết nối đến gần bốn tỷ địa chỉ khác nhau. Nhưng sau gần 30 năm phát triển, số lượng địa chỉ trên internet thực tế sắp vượt quá giới hạn của IPv4 và theo lý thuyết, các thiết bị sẽ không thể tiếp tục kết nối internet được nữa.
Do đó, để bảo đảm hoạt động của mạng internet, sự phát triển hạ tầng số cũng như internet vạn vật (IoT), IPv6 đã được phát triển, giúp thay đổi lên không gian địa chỉ IP 128-bit, tăng gấp 340 lần phiên bản cũ, có thể cung cấp hàng tỷ địa chỉ cho mỗi người truy cập. Không gian mở rộng này rất quan trọng cho sự phát triển của internet. Theo các chuyên gia, IPv6 không chỉ giúp quản lý dễ dàng không gian địa chỉ, cấu trúc định tuyến cũng tốt hơn, đồng thời hỗ trợ hiệu quả cho bảo mật và di động. Với những lợi ích như vậy, dự báo đến năm 2030, khoảng 80%-85% người sử dụng internet toàn cầu sẽ được chuyển đổi sang IPv6.
Tại Việt Nam, nhờ hoạt động sớm và đúng hướng, nước ta cũng đã đạt được nhiều kết quả trong chuyển đổi internet sang thế hệ mới hoạt động với IPv6. Tính đến tháng 6, tỷ lệ sử dụng IPv6 trên internet của Việt Nam đạt khoảng 50% (tăng 3% so năm 2021), cao gấp 1,7 lần trung bình toàn cầu và gấp 2,3 lần trung bình khối ASEAN với hơn 54 triệu thuê bao FTTH, mobile hoạt động tốt.
Được Bộ Thông tin và Truyền thông giao nhiệm vụ điều phối Chương trình IPv6 for Gov (IPv6 cho khối cơ quan nhà nước), đến nay Trung tâm internet Việt Nam (VNNIC) đã tổ chức 70 khóa đào tạo về IPv6 cho hơn 3.000 học viên, trong đó có khoảng 2.000 học viên là cán bộ công nghệ-thông tin của các cơ quan nhà nước tại các bộ, ngành, địa phương. Trong năm 2022 này, công tác đào tạo, tập huấn, tư vấn đang tiếp tục được triển khai nhằm hỗ trợ nguồn nhân lực chuyên sâu cho công tác chuyển đổi IPv6. Các chương trình đào tạo được thiết kế riêng theo mô hình tham chiếu kết nối mạng bộ, ngành, địa phương và phát triển hạ tầng số cho cơ quan Đảng, Nhà nước. Nội dung đào tạo sẽ giúp các học viên nắm bắt tốt các vấn đề chính về hiện trạng IPv6, quy định chính sách và lý do triển khai IPv6; nắm bắt các nội dung từ xây dựng, triển khai kế hoạch đến kích hoạt IPv6 cho hệ thống mạng, dịch vụ công nghệ thông tin, Cổng Thông tin điện tử…
Theo các chuyên gia, Việt Nam đang đi đúng lộ trình chuyển đổi và phát triển IPv6 toàn cầu. Nếu giai đoạn trước là thúc đẩy chuyển đổi IPv6 thì trong giai đoạn tiếp theo cần hướng tới phát triển bền vững. Bài học kinh nghiệm là phải làm trực tiếp, đúng trọng điểm, tập trung phát triển thành mô hình tốt và nhân rộng cách làm. Theo Thứ trưởng Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long, để chuyển đổi hoàn toàn internet Việt Nam sang IPv6 với hoạt động an toàn, ổn định, các doanh nghiệp ISP chủ đạo cần giữ nhịp tăng trưởng tỷ lệ sử dụng IPv6, kích hoạt hỗ trợ IPv6 cho 100% thuê bao; triển khai IPv6 cho 5G, công nghệ đám mây và IoT.
Hiện nay, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) đang là hai đơn vị tiên phong, đi đầu trong triển khai IPv6. Mặc dù có một số khó khăn về thiết bị đầu-cuối, nhưng các doanh nghiệp này cũng đã xây dựng được lộ trình thay thế thiết bị, có kế hoạch triển khai đúng mục tiêu để bảo đảm tỷ lệ ứng dụng cao; đồng thời, luôn chủ động cung cấp dịch vụ hỗ trợ IPv6 cho khối cơ quan nhà nước.
Về phía khối cơ quan nhà nước, ngay trong năm 2022 này, cần tiếp tục tập trung hoàn thành nhiệm vụ công tác IPv6 được nêu trong Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2022 về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, thực hiện việc chuyển đổi IPv6; trong đó, ưu tiên tập trung chuyển đổi IPv6 cho Cổng Thông tin điện tử, dịch vụ công trực tuyến để phục vụ cho người dân, doanh nghiệp truy cập, sử dụng dịch vụ của cơ quan nhà nước qua IPv6; thời hạn hoàn thành trong tháng 12/2022.
P.A.T (Tổng hợp)
Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tang-cuong-chuyen-doi-internet-sang-giao-thuc-moi-5473.html
CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ LIÊN THÔNG THƯ VIỆN: “CHÌA KHÓA” TIẾP CẬN BẠN ĐỌC
Cập nhật: ngày 02/06/2022
Chuyển đổi số và liên thông trong lĩnh vực thư viện ở Việt Nam đã được các đơn vị trong toàn ngành triển khai mạnh mẽ từ những năm đầu của thế kỷ 21. Nhưng thực tế đến nay, công tác chuyển đổi số thư viện vẫn đang gặp nhiều khó khăn và trở ngại.
Tiếp cận với chuyển đổi số, ngành thư viện sẽ đến gần hơn với bạn đọc…
Cú hích lớn
Ngày 21/2/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, mục tiêu đến năm 2025, 100% thư viện công lập có vai trò quan trọng được Nhà nước ưu tiên đầu tư cùng với Thư viện Quốc gia Việt Nam, thư viện công cộng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số, triển khai liên thông, chia sẻ tài nguyên và sản phẩm thông tin thư viện theo chức năng, nhiệm vụ, văn bản hợp tác.
70% tài liệu cổ, quý hiếm và bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học do các thư viện có vai trò quan trọng thu thập và quản lý được số hóa. 70% tài liệu nội sinh, các công trình nghiên cứu khoa học do các thư viện chuyên ngành, thư viện đại học thu thập và quản lý được số hóa…
Việc Thủ tướng phê duyệt chương trình đã tạo ra một “cú hích” lớn cho “cỗ máy” của toàn ngành thư viện sau một thời gian dài phải vận hành theo những cách làm xưa cũ, thủ công. Chương trình chuyển đổi số có thể xem là chiếc “chìa khóa” để thư viện Việt Nam tiến gần hơn đến bạn đọc.
Tuy nhiên, để “cỗ máy” được vận hành đúng hướng, thích ứng với sự phát triển của công nghệ, lại đang đặt ra vô vàn thử thách với những người trong ngành. Có một thực tế từ nhiều năm nay, mặc dù quá trình ứng dụng công nghệ khá dài nhưng vì nhiều lý do hạn chế, ngành thư viện đang có xu hướng thụt lùi so với các ngành, lĩnh vực khác về chuyển đổi số, liên thông.
Đơn cử về vấn đề nhân lực, với thư viện nói chung và nhân lực công nghệ thông tin có chất lượng tại các thư viện còn thiếu và yếu. Đối với nhân lực làm công tác công nghệ thông tin chỉ có một số thư viện được quan tâm thì có nguồn nhân lực tốt, tập trung vào khối thư viện đại học, còn lại phần lớn nhân lực làm công nghệ được đào tạo từ ngành khác, do đó chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin chưa thực sự đảm bảo.
Theo khảo sát của Thư viện Quốc gia Việt Nam, về nhu cầu đào tạo hoặc đào tạo lại kiến thức công nghệ thông tin, có đến 55/57 thư viện công cộng có nhu cầu (chiếm 96%); khối thư viện đại học có 68/79 thư viện có nhu cầu (chiếm tỷ lệ 86,1%); khối thư viện chuyên ngành, đa ngành có 10/15 đơn vị có nhu cầu (chiếm 66,7%); khối thư viện quân đội, công an có 2/3 thư viện có nhu cầu (chiếm 66,7%).
Qua con số thống kê trên, có thể nhận thấy bức tranh tổng thể nhân lực công nghệ thông tin tại các thư viện. Chưa kể, về nhận thức thì công tác chuyển đổi số thư viện trong thời gian qua tuy đã được quan tâm, chú ý, tuy nhiên chưa có sự cam kết mạnh mẽ của các cấp lãnh đạo địa phương, ban, ngành.
Không chỉ là khẩu hiệu
Có thể thấy, việc chuyển đổi số đang một thách thức không nhỏ với nhiều lĩnh vực, trong đó có ngành thư viện.
Để giải được “bài toán” này, theo ông Phạm Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Thư viện (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), Bộ (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch sẽ triển khai 4 nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện. Trong đó gồm số hóa tài liệu quốc gia; Xây dựng Dự án mục lục liên hợp quốc gia; Xây dựng Dự án cơ sở dữ liệu về thư viện Việt Nam; Xây dựng và triển khai Chương trình nâng cao trình độ nguồn lực thư viện. Ông Hùng cũng cho rằng, chuyển đổi số và liên thông thư viện vừa là mục tiêu, định hướng nhưng cũng là nhiệm vụ được đặt ra đối với toàn ngành thư viện trong thời gian tới mà đặc biệt là đối với các thư viện có vai trò quan trọng, được nhà nước quan tâm đầu tư. Ở đó sẽ từng bước hoàn thiện và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số; đào tạo nguồn nhân lực; triển khai liên thông, chia sẻ tài nguyên và sản phẩm thông tin thư viện hướng tới việc kết nối, chia sẻ, trao đổi nguồn dữ liệu số trong hệ thống, trong toàn ngành theo mục tiêu đã đề ra.
Đồng quan điểm, Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam Kiều Thúy Ngà cho rằng, các thư viện cần xây dựng chiến lược kế hoạch hành động, trong đó có lộ trình rõ ràng, mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, từng mảng công việc. Chuyển đổi số sẽ chỉ là khẩu hiệu nếu thư viện không có mục tiêu cụ thể và thiếu sự cam kết của các bên tham gia. Cũng theo bà Ngà, chuyển đổi số thư viện là cơ hội để các thư viện thay đổi mô hình hoạt động, mô hình triển khai dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ trên môi trường số. Do đó các thư viện cần rà soát, đánh giá lại các dịch vụ thư viện, xác định được các dịch vụ thư viện có tính chiến lược, ưu tiên các dịch vụ có tính liên kết, liên thông cao. Bởi liên thông, liên kết một mặt sẽ giảm chi phí hoạt động thư viện, mặt khác sẽ kết nối và tạo thêm được nhiều “khách hàng” hơn, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của thư viện nói chung và hiệu quả phục vụ nói riêng.
Theo giới chuyên gia, kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, việc số hóa tài liệu thường giao cho một đầu mối. Đầu mối này sẽ nhận kinh phí trực tiếp từ Nhà nước, các cá nhân và tổ chức khác nhau, sau đó tiến hành hoạt động điều phối giữa các thư viện. Cách làm này không chỉ tránh chồng chéo nguồn tài liệu mà còn quy chuẩn được các tiêu chí số hóa tài liệu, để khi cần chia sẻ tài liệu giữa các thư viện sẽ không mất thời gian xử lý lại.
Trong bối cảnh công nghệ số hiện nay, việc liên thông thư viện số thành hay bại phụ thuộc chủ yếu vào cơ chế hành chính. Nếu cơ chế được khơi thông thì việc kết nối theo chuẩn kỹ thuật chung để bảo đảm liên thông sẽ được công nghệ phần mềm xử lý triệt để.
Nguồn: Báo Đại Đoàn kết, 31/5/2022
(Nguồn: https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/chuyen-doi-so-va-lien-thong-thu-vien-chia-khoa-tiep-can-ban-doc-5063.html)
ĐỂ NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP THỤ HƯỞNG TRỰC TIẾP LỢI ÍCH CỦA CHUYỂN ĐỔI SỐ
Cập nhật: ngày 18/03/2022
Tập trung thúc đẩy chuyển đổi số năm 2022 với định hướng xuyên suốt là đưa hoạt động của người dân, doanh nghiệp lên môi trường số thông qua phổ cập sử dụng các nền tảng số Việt Nam, giúp người dân, doanh nghiệp thụ hưởng trực tiếp sự tiện lợi cũng như lợi ích của chuyển đổi số.
Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) vừa có văn bản số 797/BTTTT-THH gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn một số nhiệm vụ quan trọng thúc đẩy triển khai chuyển đổi số năm 2022.
Theo Bộ TT&TT, trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực để triển khai chuyển đổi số và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Có thể coi năm 2020 là năm khởi động nhận thức về chuyển đổi số, năm 2021 là năm bắt đầu triển khai, trải nghiệm về chuyển đổi số trong bối cảnh đại dịch, năm 2022 là năm đẩy mạnh chuyển đổi số theo hướng lấy người dân làm trung tâm, toàn dân và toàn diện.
Bộ TT&TT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung thúc đẩy chuyển đổi số năm 2022 với định hướng xuyên suốt là đưa hoạt động của người dân, doanh nghiệp lên môi trường số thông qua phổ cập sử dụng các nền tảng số Việt Nam, giúp người dân, doanh nghiệp thụ hưởng trực tiếp sự tiện lợi cũng như lợi ích của chuyển đổi số. Cụ thể:
– Phổ cập sử dụng sàn thương mại điện tử cho người dân và các hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh cá thể.
– Phổ cập sử dụng nền tảng dạy học trực tuyến, trong đó chú trọng hướng dẫn người dân chủ động sử dụng các nền tảng số phục vụ việc học tập, ôn luyện các môn học về khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, kỹ năng số, kỹ năng mềm.
– Phổ cập sử dụng nền tảng số hỗ trợ tư vấn sức khỏe cá nhân, kết nối trực tiếp giữa người dân với bác sĩ theo quy định của pháp luật, sử dụng nền tảng số hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh từ xa của các bệnh viện.
– Phổ cập sử dụng nền tảng số khác phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân như liên lạc, giải trí, du lịch, đi lại, ăn uống và bảo đảm an toàn thông tin mạng.
– Phổ cập sử dụng dịch vụ công trực tuyến do cơ quan chính quyền các cấp cung cấp cho người dân, doanh nghiệp.
– Phổ cập sử dụng nền tảng số phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bộ TT&TT cũng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo triển khai 22 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng vừa mang tính trung hạn, vừa mang tính ưu tiên triển khai trong năm 2022 để thực hiện các định hướng nêu trên.
(Nguồn: https://baochinhphu.vn/)